Da Funk

"Da Funk"
Virgin Records cover
Đĩa đơn của Daft Punk
từ album Homework
Mặt B
  • "Rollin' and Scratchin'" (Soma)
  • "Musique" (Virgin)
Phát hành15 tháng 5 năm 1995 (1995-05-15)[1]
Thu âmTháng 5 năm 1995 (1995-05)
Phòng thuDaft House
Paris, Pháp
Thể loại
Thời lượng5:28
Hãng đĩa
Sáng tác
Sản xuấtDaft Punk
Thứ tự đĩa đơn của Daft Punk
"The New Wave"
(1994)
"Da Funk"
(1995)
"Indo Silver Club"
(1996)
Video âm nhạc
"Da Funk" trên YouTube
Mẫu âm thanh
"Da Funk"

"Da Funk" là một bài hát không lời của bộ đôi nhạc điện tử người Pháp Daft Punk, ban đầu được Soma Quality Recordings phát hành dưới dạng đĩa đơn vào năm 1995 và sau đó được đưa vào album đầu tay Homework của họ. "Da Funk" và video đi kèm của nó do Spike Jonze đạo diễn được coi là kinh điển của dòng nhạc house những năm 90.[3] Nó tiếp tục bán được 30.000 bản vào năm 1997. Một đoạn trích đảo ngược của "Da Funk" cũng được phát hành trên Homework với tên "Funk Ad", đây là ca khúc cuối cùng trong album.

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

"Da Funk" ban đầu được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào năm 1995 bởi nhãn hiệu Soma Quality Recordings, với mặt B "Rollin' & Scratchin'".[4] Lần phát hành này được giới hạn ở 2.000 bản và "hầu như bị bỏ qua" vào thời điểm đó. Bài hát đã trở nên phổ biến hơn khi The Chemical Brothers sử dụng nó trong các buổi biểu diễn trực tiếp của họ.[5]

Daft Punk cuối cùng đã ký hợp đồng với Virgin Records vào cuối năm 1996 sau một cuộc chiến đấu thầu giữa một số hãng. "Da Funk" được Virgin tái phát hành với mặt B "Musique", một ca khúc sau này xuất hiện trong tuyển tập Musique Vol. 1 1993–2005. Album đầu tay Homework của bộ đôi có "Da Funk" cũng như một đoạn trích đảo ngược có tựa đề "Funk Ad". Daft Punk bày tỏ rằng họ muốn làm cho album cân bằng bằng cách phân phối các bản nhạc đồng đều trên mỗi mặt trong bốn mặt đĩa than.[6]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Spike Jonze và có tựa đề Big City Nights. Phim tập trung vào Charles (Tony Maxwell), một chú chó được nhân hóa với một chân phải đeo nạng. Charles, người mới chỉ sống ở Thành phố New York được một tháng, được cho thấy đang đi dạo xung quanh với hộp chơi nhạc và phát "Da Funk" với âm lượng lớn. Bước đi tập tễnh của anh ấy bị một cặp trẻ em chế giễu. Anh ta bị từ chối khi anh ta cố gắng tham gia một cuộc khảo sát công khai. Hộp chơi nhạc của anh ta làm phiền một người bán sách trên vỉa hè, người đó bán cho Charles một cuốn sách bìa mềm có tựa đề Big City Nights. Charles gặp một người phụ nữ tên là Beatrice (Catherine Kellner), người từng là hàng xóm thời thơ ấu của anh. Họ đồng ý ăn tối cùng nhau tại nhà cô ấy, di chuyển bằng xe buýt thành phố. Beatrice lên xe buýt, nhưng Charles giật mình trước tấm biển ghi "KHÔNG SỬ DỤNG ĐÀI RADIO". Vì anh ta không thể tắt hộp chơi nhạc của mình, anh ta miễn cưỡng ở lại trạm xe buýt, khi xe buýt khởi hành cùng Beatrice.

Mặc dù một số lời giải thích cho video đã được đưa ra, Thomas Bangalter đã tuyên bố:

Không có một câu chuyện nào hết. Chỉ đơn giản là một con chó đi dạo ở New York. Phần còn lại không để nói lên bất cứ điều gì. Mọi người đang cố gắng giải thích nó: Đó là về lòng khoan dung của con người? Hội nhập? Chủ nghĩa đô thị? Thực sự không có lời nhắn nhủ gì. Sẽ có phần tiếp theo vào một ngày nào đó.[7]

Charles đóng vai chính trong video âm nhạc cho "Fresh", một bài hát khác trong album Homework. Lấy bối cảnh vài năm sau "Da Funk", Charles đã trở thành một ngôi sao điện ảnh thành công được nhiều đồng nghiệp kính trọng và hiện đang sống với Beatrice.

Tầm ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tạp chí hộp đêm nổi tiếng của Pháp Coda đã gọi tên "Da Funk" là đĩa đơn số một với 33 phần trăm phiếu bầu.[5] Năm 2003, Tạp chí Q đã xếp nó ở vị trí thứ 670 trong danh sách 1001 bài hát xuất sắc nhất từng có.[8] Vào tháng 9 năm 2010, Pitchfork đã đưa bài hát vào vị trí thứ 18 trong "200 bản nhạc hàng đầu của thập niên 90".[9] Năm 2011, bài hát được xuất hiện trong trò chơi điện tử Top Spin 4Just Dance 3 của Ubisoft. Tạp chí Slant đã liệt kê nó ở vị trí thứ 93 trong bảng xếp hạng "100 đĩa đơn hay nhất những năm 1990" cùng năm.[10] Năm 2012, NME đã liệt kê nó vào "100 bài hát hay nhất của những năm 1990", ở vị trí thứ 8.[11]

Danh sách ca khúc

[sửa | sửa mã nguồn]
CD (Virgin 8939202)[12]
STTNhan đềThời lượng
1."Da Funk" (Mặt A)5:33
2."Musique" (Mặt B)6:52
Tổng thời lượng:12:25
CD (Virgin DPRO-12232)[12]
STTNhan đềPhổ nhạcThời lượng
1."Da Funk" (bản chỉnh sửa ngắn) 2:41
2."Da Funk" (bản chỉnh sửa dài) 3:48
3."Da Funk" 5:32
4."Da Funk" (bản mix "Ten Minutes of Funk")Armand van Helden10:08
5."Da Funk" (Callout Research Hook) 0:10
Tổng thời lượng:22:19
CD maxi single (Virgin 8385872)[12]
STTNhan đềThời lượng
1."Da Funk" (Radio Edit)5:33
2."Musique"6:52
3."Da Funk" (bản mix "Ten Minutes of Funk")10:08
Tổng thời lượng:22:28
Đĩa than 7-inch (Virgin VSLH 1625)[12]
STTNhan đềThời lượng
1."Da Funk" (bản chỉnh sửa dài)3:48
2."Da Funk"5:33
Tổng thời lượng:9:21
Đĩa than 12-inch (Soma 025)[12]
STTNhan đềThời lượng
1."Da Funk" (Mặt A)5:28
2."Rollin' & Scratchin'" (Mặt B)7:26
Tổng thời lượng:12:54

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Anh Quốc (BPI)[34] Silver 200.000double-dagger

double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày ra mắt Phuơng thức phát hành Hãng
Vuơng Quốc Anh 15 tháng 5 năm 1995 (1995-05-15) Đĩa than 12-inch Soma
Châu Âu 10 tháng 1 năm 1997 (1997-01-10) CD Virgin
Vuơng Quốc Anh 3 tháng 2 năm 1997 (1997-02-03)
Hoa Kỳ 24 tháng 3 năm 1998 (1998-03-24)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Shop :: Music :: Daft Punk :: Da Funk”. Soma. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2021.
  2. ^ Harris, Damian (19 tháng 8 năm 2011). “The Big Beat Revolution: 11 Essential Songs”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2011.
  3. ^ Dombal, Ryan (3 tháng 9 năm 2010). “The Top 200 Tracks of the 1990s: 20–01”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2016.
  4. ^ Hawthorn, Carlos (12 tháng 10 năm 2019). “Rewind: Daft Punk - Da Funk”. Resident Advisor. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021.
  5. ^ a b “Daft Funk - Frog Rock” (PDF). Muzik (21): 54. tháng 2 năm 1997 – qua muzikmagazine.co.uk.
  6. ^ Dave "the Wave" Dresden. “Interview with Daft Punk”. DMA. tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2005.
  7. ^ Grant, Kieran. “Who are those masked men?”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  8. ^ “Q - 1001 best songs ever (2003)”. muzieklijstjes.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2004.
  9. ^ Dombal, Ryan (3 tháng 9 năm 2010). “The Top 200 Tracks of the 1990s: 20–01”. Pitchfork. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2016.
  10. ^ Jones (10 tháng 1 năm 2011). “The 100 Best Singles of the 1990s”. Slant. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2019.
  11. ^ “100 Best Songs Of The 1990s”. NME. 8 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2016.
  12. ^ a b c d e “Daft Punk – Da Funk”. Hung Medien.
  13. ^ "Australian-charts.com – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles.
  14. ^ "Ultratop.be – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50.
  15. ^ "Ultratop.be – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50.
  16. ^ "Ultratop.be – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop Dance.
  17. ^ "Top RPM Dance/Urban: Tài liệu số 3219." RPM (bằng tiếng Anh). Library and Archives Canada.
  18. ^ “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 14 (9): 13. 1 tháng 3 năm 1997.
  19. ^ "Daft Punk: Da Funk" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  20. ^ "Lescharts.com – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Pháp). Les classement single.
  21. ^ “Íslenski Listinn Topp 40 (NR. 213 Vikuna 20.3. '97 – 26.3. '97)”. Dagblaðið Vísir. 21 tháng 3 năm 1997. tr. 16.
  22. ^ "The Irish Charts – Search Results – Da Funk / Musique" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart.
  23. ^ “Top National Sellers” (PDF). Music & Media. 14 (18): 22. 3 tháng 5 năm 1997.
  24. ^ "Dutchcharts.nl – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100.
  25. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  26. ^ "Swedishcharts.com – Daft Punk – Da Funk" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100.
  27. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  28. ^ "Daft Punk Chart History (Bubbling Under Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  29. ^ "Daft Punk Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  30. ^ “Rapports annuels 1997”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2008.
  31. ^ “RPM '97 Year End Top 50 Dance Tracks”. RPM. Library and Archives Canada.
  32. ^ “Tops de L'année | Top Singles 1997”. SNEP. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020.
  33. ^ “Árslistinn 1997 – Íslenski Listinn – 100 Vinsælustu Lögin”. Dagblaðið Vísir (bằng tiếng Iceland). 2 tháng 1 năm 1998. tr. 25.
  34. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Daft Punk – Da Funk” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Cùng nhìn lại kế hoạch mà Kenjaku đã mưu tính suốt cả nghìn năm
Cùng nhìn lại kế hoạch mà Kenjaku đã mưu tính suốt cả nghìn năm
Cho đến hiện tại Kenjaku đang từng bước hoàn thiện dần dần kế hoạch của mình. Cùng nhìn lại kế hoạch mà hắn đã lên mưu kế thực hiện trong suốt cả thiên niên kỉ qua nhé.
5 băng đảng bất lương mạnh nhất Tokyo Revengers
5 băng đảng bất lương mạnh nhất Tokyo Revengers
Là manga/anime về cuộc chiến giữa các băng đảng học đường, Tokyo Revengers có sự góp mặt của rất nhiều băng đảng hùng mạnh
[X-Men] Nhân vật Apocalypse - The First One
[X-Men] Nhân vật Apocalypse - The First One
Câu chuyện của Apocalypse (En Sabah Nur) bắt đầu khi anh ta sinh ra vào khoảng 5000 năm trước công nguyên ở Ai Cập
Hướng dẫn build Albedo - Genshin Impact
Hướng dẫn build Albedo - Genshin Impact
Làm SP DPS ngon, build Dmg theo Hoa Khoảnh Khắc (DEF) không cần vũ khí 5 sao mới mạnh