"Get Lucky" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Daft Punk hợp tác với Pharrell Williams | ||||
từ album Random Access Memories | ||||
Phát hành | 19 tháng 4 năm 2013 | |||
Thu âm | 2012 | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng |
| |||
Hãng đĩa |
| |||
Sáng tác | ||||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự đĩa đơn của Daft Punk | ||||
| ||||
Thứ tự đĩa đơn của Pharrell Williams | ||||
| ||||
Audio sample | ||||
Video âm nhạc | ||||
"Get Lucky" trên YouTube |
"Get Lucky" là một bài hát của bộ đôi nhà sản xuất người Pháp Daft Punk hợp tác với nghệ sĩ thu âm người Mỹ Pharrell Williams nằm trong album phòng thu thứ tư của họ, Random Access Memories (2013). Nó được phát hành vào ngày 19 tháng 4 năm 2013 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi nhãn hiệu riêng của nhóm Daft Life và Columbia Records. Bài hát được viết lời và sản xuất bởi hai thành viên của Daft Punk (Thomas Bangalter và Guy-Manuel de Homem-Christo), bên cạnh sự tham gia đồng viết lời từ Williams và Nile Rodgers. Trước khi được phát hành làm đĩa đơn, "Get Lucky" đã xuất hiện liên tục trong những đoạn quảng cáo được phát trong một tập của Saturday Night Live, trước khi Rodgers và Williams tuyên bố về việc tham gia vào bài hát. Đây là một bản disco và funk mang nội dung đề cập đến cảm giác may mắn của một người đàn ông trong tình yêu với một người phụ nữ, cũng như những kết nối trong tình cảm giữa hai người. Ngoài "Get Lucky", cả hai nghệ sĩ cũng tiếp tục hợp tác trong đĩa đơn tiếp theo từ album, "Lose Yourself to Dance".
Sau khi phát hành, "Get Lucky" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao vai trò của Williams và Rodgers, giai điệu hấp dẫn cũng như quá trình sản xuất nó, đồng thời gọi đây là tác phẩm xuất sắc nhất của Daft Punk trong nhiều năm. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm hai đề cử giải Grammy cho Thu âm của năm và Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 56, và chiến thắng tất cả. "Get Lucky" cũng tiếp nhận những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại với việc đứng đầu các bảng xếp hạng ở hơn 30 quốc gia, như Úc, Áo, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Ireland, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 10 ở tất cả những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Canada, Phần Lan, Hà Lan, New Zealand, Na Uy và Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong năm tuần, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Daft Punk và thứ tư của Williams vươn đến top 5 tại đây.
Video ca nhạc cho "Get Lucky" được đạo diễn bởi Warren Fu, trong đó bao gồm những cảnh Daft Punk, Williams và Rodgers hát và chơi nhạc cụ trong một căn phòng khi đang được xoay vòng liên tục với những bộ trang phục lấp lánh. Để quảng bá bài hát, hai nghệ sĩ đã trình diễn nó cùng nhau hoặc riêng biệt trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm giải Grammy lần thứ 56 với sự tham gia đặc biệt từ Stevie Wonder, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của họ. Kể từ khi phát hành, "Get Lucky" đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như "Weird Al" Yankovic, Fall Out Boy, Pentatonix, Skylar Grey Naughty Boy, Joe McElderry, Halestorm và ban nhạc của Rodgers Chic, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm Ballers, Boyhood, Castle, Coronation Street, The Inbetweeners 2, New Girl và The Simpsons. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 12 triệu bản trên toàn cầu, trở thành đĩa đơn bán chạy thứ sáu của năm 2013 cũng như là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Tải kĩ thuật số[2]
Đĩa CD[3]
|
Tải kĩ thuật số – phối lại[4]
Đĩa 12"[5]
|
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Random Access Memories.[6]
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng mọi thời đại[sửa | sửa mã nguồn]
|
Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[110] | 6× Bạch kim | 420.000^ |
Áo (IFPI Áo)[111] | Bạch kim | 30.000* |
Bỉ (BEA)[112] | 2× Bạch kim | 60.000* |
Canada (Music Canada)[113] | 5× Bạch kim | 50.000^ |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[114] | Bạch kim | 30.000^ |
Phần Lan (Musiikkituottajat)[115] | Vàng | 53,429[115] |
Pháp (SNEP)[116] | Kim cương | 250.000* |
Đức (BVMI)[117] | 2× Bạch kim | 1.000.000^ |
Ý (FIMI)[118] | 5× Bạch kim | 150.000 |
México (AMPROFON)[119] | Kim cương | 300.000* |
New Zealand (RMNZ)[120] | 2× Bạch kim | 30.000* |
Na Uy (IFPI)[121] | 2× Bạch kim | 20.000* |
Hàn Quốc (Gaon Chart) | None | 705,341[122] |
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[123] | Vàng | 20.000* |
Thụy Điển (GLF)[124] | 2× Bạch kim | 40.000 |
Thụy Sĩ (IFPI)[125] | 3× Bạch kim | 90.000^ |
Anh Quốc (BPI)[126] | 3× Bạch kim | 1.800.000 |
Hoa Kỳ (RIAA)[127] | 4× Bạch kim | 4.000.000 |
Venezuela (APFV)[128] | 3× Bạch kim | 30.000^ |
Streaming | ||
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[129] | 4× Bạch kim | 10.400.000^ |
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[130] | Bạch kim | 10.000.000* |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Khu vực | Ngày | Định dạng | Hãng đĩa |
---|---|---|---|
Úc[131] | 18 tháng 4 năm 2013 | Tải kĩ thuật số | Columbia |
Nhật Bản[132] | |||
New Zealand[133] | |||
Nga[134] | |||
Vương quốc Anh[2] | |||
Hoa Kỳ[2] | |||
Hoa Kỳ[135] | 21 tháng 5 năm 2013 | Contemporary hit radio | |
Đức[3] | 28 tháng 6 năm 2013 | CD | |
Vương quốc Anh | 16 tháng 7 năm 2013[136] | 12" | |
Hoa Kỳ |