Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
Hanafuda (tiếng Nhật:
Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Chơi bài là một dạng nghệ thuật truyền thống của Nhật từng chỉ được chơi bởi tầng lớp quý tộc và không sử dụng với mục đích kiếm tiền.
Tuy nhiên, đến thế kỷ XVI, khi Francisco Xavier đặt chân đến Nhật, mang theo bộ bài thông dụng để đánh poker của người phương Tây, thì cờ bạc bắt đầu phát triển trên toàn Nhật Bản, giới bakuto đã xuất hiện trong thời gian này.
Nhưng đến thế kỷ XVII, khi Nhật Bản cấm giao thương với phương Tây, bài poker cũng bị cấm, và cũng vì cờ bạc là nguyên nhân của rất nhiều hỗn loạn.
Dù bài poker đã bị cấm, nhưng phong trào đánh bạc đang lên ở Nhật Bản không dễ bị dập tắt. Trong suốt thời Edo, các bakuto thường xuất hiện dưới dạng người giúp việc cho chủ nhà, tổ chức các cuộc bài bạc lén lút (dưới sự bảo hộ của chủ nhà), mục đích bòn rút lại tiền công của các người làm công khác cho ông chủ. Các dạng bài truyền thống đã được những người thợ làm bài vẽ cách điệu để che mắt luật pháp nhưng vẫn bị phát hiện và chính quyền shōgun tìm mọi cách dập tắt. Cứ mỗi dạng bài được vẽ ra và phổ biến cho người chơi của bakuto lại vấp phải sự ngăn cản quyết liệt từ phía chính phủ. Cuộc chiến giữa chính phủ và bakuto cứ diễn ra như vậy.
Giữa thế kỷ XVIII, một dạng bài lá với tên gọi là Mekuri Karuta đã ra đời thay thế cho Unsun Karuta (vốn được vẽ cách điệu theo văn hóa Trung Quốc). Mekuri Karuta là 1 bộ bài có 48 lá, nhanh chóng được phổ biến và phát triển nhờ cách chơi phong phú và khoa học nhưng nhanh chóng bị chính quyền dập tắt vào cuối thế kỷ XVIII.
Tiếp theo đó còn nhiều loại bài khác như Jomo Karuta, Iroha Garuta hay Obake Karuta, nhưng cũng không phát triển được dưới sự kiểm duyệt gắt gao của chính phủ. Nhưng dần dần chính quyền shōgun đều nhận ra rằng những việc mình làm đều không có hiệu quả nhất định: cứ một dạng bài bị cấm chơi thì một dạng khác lại được tạo ra. Chính những suy nghĩ đó đã dẫn đến việc ra đời của một loại bài "không có số" được phép chơi hợp pháp, nhưng không thể tính điểm trong mỗi cuộc chơi. Mỗi lá bài ứng với một loại hoa tượng trưng cho mỗi mùa, gọi là hanafuda. Và đương nhiên, bakuto vẫn soạn thảo được ra cách tính điểm để che mắt chính quyền. Cuộc chiến giữa bakuto và shōgun kết thúc.
Ngày nay hanafuda đã trở thành một trò chơi truyền thống phổ biến ở Nhật Bản.
Một bộ bài hanafuda có tổng cộng 48 lá bài, được phân thành 12 chất đại diện cho 12 tháng trong năm. Mỗi một chất có 4 lá bài và được gán cho một loài hoa hay loài cây.[5] Bên cạnh đó, bộ bài hanafuda còn có thêm một lá bài trống để thay thế khi cần. Trong bộ bài hwatu của Hàn Quốc còn có những lá joker (조커패) được dùng để thưởng điểm.[6]
Bảng dưới đây trình bày cách phân loại cũng như giá trị của từng lá bài. Nên chú ý rằng mỗi trò chơi bài khác nhau thì có cách phân loại khác nhau cũng như gán giá trị cách khác nhau cho từng lá bài. Chẳng hạn, trong trò chơi Hachi-Hachi , tất cả 4 thẻ theo tháng 11 được coi là thẻ kasu (1 điểm), còn trong trò chơi Sakura thì giá trị các lá bài được định cách khác.
Tháng / chất
Hoa / Cây |
Hikari
(20 điểm) |
Tane
(10 điểm) |
Tanzaku
(5 điểm) |
Kasu
(1 điểm) | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng Một | Con sếu và Mặt trời | Tanzaku với câu thơ | 2 lá | |||||
Tháng Hai | Vành khuyên Nhật Bản[a] | Tanzaku với câu thơ | 2 lá | |||||
Tháng Ba | Cái rèm | Tanzaku với câu thơ | 2 lá | |||||
Tháng Tư | Chim cu cu[b] | Tanzaku trống không | 2 lá | |||||
Tháng Năm | Cầu Yatsuhashi | Tanzaku trống không | 2 lá | |||||
Tháng Sáu | Bươm bướm | Tanzaku màu xanh | 2 lá | |||||
Tháng Bảy | Heo rừng | Tanzaku trống không | 2 lá | |||||
Tháng Tám | Trăng tròn [f] | Con ngỗng[g] | 2 lá | |||||
Tháng Chín | Chén rượu sake | Tanzaku màu xanh | 2 lá | |||||
Tháng Mười | Con hươu | Tanzaku màu xanh | 2 lá | |||||
Tháng Mười một* | Ono no Michikaze
hay hình một người cầm ô[i] |
Chim én[j] | Tanzaku trống không | (Sấm sét) [k]
|
1 lá | |||
Tháng Mười hai* | Phượng hoàng | 3 lá |
* Trong bộ bài hwatu của Hàn Quốc, các chất của tháng 11 và tháng 12 được gán ngược lại.
Một vài lá bài hanafuda có chứa văn bản tiếng Nhật. Thời xa xưa, người ta viết các câu thơ lên lá bài hanafuda để ngụy trang chúng cho giống như loại bài lá uta-garuta (n.đ. 'bài lá câu thơ'); tuy vậy hiện nay thì phần chữ viết trên các lá bài đã được giản lược. Bên cạnh các ví dụ như mấy lá bài bên dưới, thì các lá bài kasu của chất theo tháng 12 thường có thêm tên và con dấu của nhà sản xuất, tương tự như quân át bích trong bộ bài Tây.
Lá bài | Mô tả |
---|---|
akayoroshi (あかよろし akayoroshi , "màu đỏ là màu tốt lành") với chữ ka được viết theo kiểu hentaigana là 𛀙 | |
mi-Yoshino (みよしの mi-Yoshino , "Yoshino xinh đẹp") nhắc đến thị trấn Yoshino, tỉnh Nara, nổi tiếng với loài cây anh đào lai Somei-Yoshino | |
kotobuki (寿 kotobuki , "sống lâu") |