Người Do Thái theo Phật giáo là những người Do Thái thực hành đức tin của Phật Giáo và những lời dạy, triết học, tư tưởng của nhà Phật. Trong văn hóa đại chúng thì những người Do Thái theo đạo Phật thì được gọi với những danh từ trong tiếng Anh như là Jewbu, Jew-Bu, Jewboo, Jubu, Buju... Danh từ Jubu lần đầu tiên được đưa vào sử dụng rộng rãi qua sự xuất bản của cuốn sách "Người Do Thái trong Đài sen" (The Jew in Lotus, 1994) của tác giả Rodger Kamenetz. Trong một số trường hợp, thuật ngữ này có thể đề cập đến các cá nhân thực hiện cả hai truyền thống; trong các trường hợp khác, Do Thái là một tên gọi của dân tộc nhưng hành vi tôn giáo chính của người đó là Phật giáo. Trong các trường hợp khác, một Jubu chỉ đơn giản là một người Do Thái với một sự quan tâm đến Phật giáo hoặc thiền định. Một số lượng lớn các Phật tử là người Do Thái, chiếm đa số, vẫn duy trì các hoạt động tôn giáo và đức tin trong Do Thái giáo cùng với những thực hành Phật giáo và có lẽ là niềm tin.
Trường hợp lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ được ghi nhận là câu truyện của một người Mỹ đã chuyển đổi quy y sang Phật giáo trên lãnh thổ tổ quốc Hoa Kỳ đã xảy ra tại Hội nghị Thế giới năm 1893 về tôn giáo. Người cải giáo quy y này là một người đàn ông Do Thái tên là Charles Strauss, ông đã tự tuyên bố mình là một Phật tử tại một buổi thuyết giảng công khai trong hội nghị. Strauss sau này đã trở thành một tác giả và nhà lãnh đạo tiên phong của phong trào Phật giáo ở phương Tây.[1] Sau chiến tranh thế giới thứ hai sự quan tâm của phương Tây đối với Phật giáo tăng vụt lên, thường liên quan đến thế hệ Beat. Phật giáoThiền tông là sự ảnh hưởng quan trọng nhất tại thời điểm đó. Một làn sóng người Do Thái mới tham gia Phật giáo vào cuối những năm 1960. Những sư phụ nổi bật bao gồm Joseph Goldstein, Jack Kornfield và Sharon Salzberg người thành lập Insight Meditation Society. Sylvia Boorstein truyền giáo tại Trung tâm Thiền định Tinh thần, tất cả đều học thiền Vipassana chủ yếu qua giáo viên Người Thái (Thái Lan). Một thế hệ khác của người Do Thái như các giáo sư Phật giáo xuất hiện vào đầu những năm 2000, bao gồm tác giả Taro Gold, giải thích các truyền thống Phật giáo Nhật Bản như là Nichiren Buddhism.
Theo Mười điều răn và luật Do Thái cổ điển (halacha), thì cấm kỵ bất kỳ người Do Thái nào thờ cúng bất kỳ vị thần nào khác ngoài Thiên Chúa của dân tộc Israel. Cấm tham gia hoặc thờ lạy theo một tôn giáo khác vì làm như vậy sẽ làm cho một cá nhân như một người thờ phượng hình tượng hay thờ lạy thần tượng. Vì hầu hết các Phật tử không cho rằng Đức Phật là một vị thần, vì thế người Do Thái theo Phật giáo không coi Phật pháp là tôn thờ. Mặc dù có một số thực hành bao gồm cúng bái hương và các món ăn lên trước tượng Phật, và cả lễ lạy và cúi chào trước tượng Phật. Ngoài ra, nhiều Phật tử (đặc biệt là Phật giáo Nguyên Thủy) không thờ phượng Đức Phật mà thay vào đó "tôn kính" và "bày tỏ lòng biết ơn" đối với các thành tựu và sự giảng dạy từ bi của Đức Phật (và tất cả các chư Phật) tức là khám phá và giảng dạy Phật Pháp để người khác có thể được giải thoát khỏi đau khổ và lên đỉnh Niết bàn.
That's Funny, You Don't Look Buddhist by Sylvia Boorstein
Frank Drescher, Jewish Converts to Buddhism and the Phenomenon of "Jewish Buddhists" ("JuBus") in the United States, Germany and Israel, Munich 2017. ISBN9783668514034.
^See Larry Rohter, "On the Road, for Reasons Practical and Spiritual." The New York Times, ngày 25 tháng 2 năm 2009. For an extended discussion of the Jewish mystical and Buddhist motifs in Cohen's songs and poems, see Elliot R. Wolfson, "New Jerusalem Glowing: Songs and Poems of Leonard Cohen in a Kabbalistic Key," Kabbalah: A Journal for the Study of Jewish Mystical Texts 15 (2006): 103–152.
^Harris, Dan, 10% Happier: How I Tamed the Voice in My Head, Reduced Stress Without Losing My Edge, And Found Self-Help That Actually Works-A True Story (2014): Chapter 5, "The Jew-Bu," pp. 85–96.
^“CNN.com”. CNN. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2010.