Một cô bé người Hà Nhì với chiếc mũ trùm đầu điển hình của người Hà Nhì cho trẻ em. Chụp gần huyện Nguyên Dương, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
---|---|
Trung Quốc (Vân Nam): 1.440.029 (2000), Myanmar: 200.000 (2007), | |
Ngôn ngữ | |
tiếng Hà Nhì | |
Tôn giáo | |
Tín ngưỡng dân gian, Phật giáo, Kitô giáo. | |
Sắc tộc có liên quan | |
Lô Lô (Di), La Hủ (Lạp Hỗ) |
Người Hà Nhì (tên tự gọi: Haqniq, tiếng Hán: 哈尼族 Hāní zú, Cáp Nê tộc), tên gọi khác: Ha Ni, U Ní, Xá U Ní là một dân tộc sống ở Đông Nam Á và lân cận bên Trung Quốc.
Người Hà Nhì nói tiếng Hà Nhì, ngôn ngữ thuộc nhóm Lô Lô, trong ngữ tộc Tạng-Miến, ngữ hệ Hán-Tạng.
Tại Việt Nam người Hà Nhì là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, theo Điều tra dân số năm 2019 có 25.539 người [1][2].
Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa người Hà Nhì là một trong số 56 dân tộc được công nhận chính thức.
Tại Lào, theo số liệu năm 1985, có 727 người Hà Nhì cư trú. Số dân này chủ yếu là di dân trong thời kì hoạt động của tướng Vàng Pao.
Ở Việt Nam có khoảng 17.500 người Hà Nhì (1999) cư trú ở các tỉnh Điện Biên,Lai Châu và Lào Cai, giáp với Trung Quốc, gồm 3 nhóm địa phương: Hà Nhì Hoa (gồm có nhóm Hà Nhì Cồ Chồ sống ở vùng thấp và Hà Nhì La Mí sống ở vùng cao) và Hà Nhì Đen (Hà Nhì Lô Mê).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hà Nhì ở Việt Nam có dân số 21.725 người, cư trú tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố [3]. Người Hà Nhì cư trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (13.752 người, chiếm 63,3% tổng số người Hà Nhì tại Việt Nam), Lào Cai (4.026 người), Điện Biên (3.786 người)[4].
Tại Mường Tè (Lai Châu), căn cứ vào sự khác nhau về y phục, về phương ngữ hay phong tục tập quán, người Hà Nhì tự chia thành hai nhóm: Hà Nhì Cồ Chồ và Hà Nhì La Mí (gọi chung là Hà Nhì Hoa). Trong đó, nhóm Hà Nhì Cồ Chồ cư trú tập trung ở các bản Xi Né (xã Mù Cả), A Mé (xã Tà Tổng), Nậm Hạ (xã Kan Hồ), Chang Pa Chải (xã Hua Bum). Nhóm Hà Nhì La Mí cư trú tập trung ở các xã Ka Lăng, Thu Lũm và các bản Mù Cả, Ma Ký, Gò Cứ (xã Mù Cả), Nậm Lọ (xã Kan Hồ).
Người Hà Nhì Đen tập trung ở Y Tý, Lào Cai.
Ở Trung Quốc, khoảng 97% trong tổng số hơn 574.800 người Hà Nhì sống ở tỉnh huyện Kim Bình tỉnh Vân Nam, rải rác quanh dãy núi Ai Lao Sơn (哀牢山), nằm giữa các sông Lan Thương Giang (Mekong) và Nguyên Giang (元江 hay Hồng Hà 红河, tiếng Hà Nhì: Lalsa baqma). Tại đây có huyện tự trị dân tộc Hà Ni, dân tộc Di, dân tộc Thái Nguyên Giang (Yuánjiāng Hānízú Yízú Dǎizú zìzhìxiàn 元江哈尼族彝族傣族自治县) với huyện lị là Nguyên Giang.
Người ta chưa biết rõ nguồn gốc của người Hà Nhì, tuy tổ tiên họ, tộc người Khương, đã di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía nam từ trước thế kỷ thứ ba.
Theo lời truyền miệng của người Hà Nhì thì họ có nguồn gốc từ người Di (Yi), tách khỏi nhau thành bộ tộc riêng biệt 50 đời về trước.
Tiếng Hà Nhì thuộc nhánh ngôn ngữ Di (Yi) tức nhóm Lô Lô, trong ngữ tộc Tạng-Miến, ngữ hệ Hán-Tạng.
Theo lời truyền miệng thì người Hà Nhì đã từng có một thứ chữ viết, nhưng thứ chữ này đã bị thất lạc khi di cư từ Tứ Xuyên xuống phía nam. Giờ đây họ sử dụng chữ cái La-tinh làm chữ viết.
Tùy vào đặc điểm phân bố dân cư ở các vùng khác nhau, ngôn ngữ Hà Nhì cũng có sự thích nghi, mỗi vùng có đặc trưng ngôn ngữ riêng.
Người Hà Nhì chủ yếu trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyền thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vườn cạnh nhà...
Chăn nuôi là một nghề phát triển. Các nghề thủ công như đan lát, dệt vải cũng rất phổ biến. Phần đông người Hà Nhì tự túc được vải mặc
Nhìn chung người Hà Nhì ở Việt nam dù ở Miền núi hẻo lánh nhưng trình độ phát triển về nhận thức, học vấn hơn các dân tộc khác.
Người Hà Nhì hiện nay đã định cư, mỗi bản có khi đông tới 60 hộ. Người Hà Nhì có nhiều họ, mỗi họ gồm nhiều chi. Dịp tết hàng năm có tục cả dòng họ tụ tập lại nghe người già kể tộc phả của mình, có dòng họ nhớ được về xưa tới 40 đời. Tên của người Hà Nhì thường đặt theo tập tục là lấy tên người cha, hoặc tên con vật ứng với ngày sinh của người ấy làm tên đệm.
Người Hà Nhì có nhiều lễ hội trong năm. Ngoài lễ chính là Tết Nguyên đán và Tết thiếu nhi thì còn có lễ Khu Già Già (tháng 6), lễ Ga Tho Tho (tháng 11). Ngoài ra có thêm một số lễ cúng nhỏ như: ăn lúa mới (tháng 8), ăn nếp mới (tháng 9)...
Người Hà Nhì có nhiều truyện cổ, có cả truyện thơ dài. Nam nữ thanh niên có điệu múa riêng, đều theo nhịp tấu, nhạc cụ gõ. Trai gái Hà Nhì tỏ tình thường dùng các loại khèn lá, đàn môi, sáo dọc. Các thiếu nữ thích thổi am-ba, mét-du, tuy-húy (huýt sáo) hay nát-xi vào ban đêm. Con trai gảy đàn La Khư. Ngày lễ hội còn có trống, thanh la, chập cheng góp vui. Người Hà Nhì có nhiều loại bài hát: các bà mẹ hát ru, thanh niên nam nữ hát đối... Có hát đám cưới, hát đám ma, hát mừng nhà mới, hát tiếp khách quý, hát trong ngày tết... Bài hát đám cưới của người Hà Nhì ở Mường Tè, Lai Châu, Việt Nam dài tới 400 câu.
Ngày tết truyền thống của người Hà Nhì được gọi là Hồ Sự Chà. Người Hà Nhì ở Mường Tè thường chọn 3 ngày trong tháng con chuột (Hu - Pa - La), khi ấy mùa màng đã thu hoạch xong, tức là khoảng thời gian vào tháng 11 dương lịch để ăn tết. Tết bắt đầu vào ngày rồng, không kể đầu tháng hay cuối tháng, tùy từng bản tổ chức sớm hay muộn. Loại bánh không thể thiếu trong ngày tết Hồ Sự Chà là bánh dầy[5][6].
Trước tết họ thường sửa sang nhà cửa, chuẩn bị gạo, rượu, đồ ăn. Lợn chuẩn bị nuôi từ đầu năm để tết đến thì mổ. Vào tối ngày 30, người Hà Nhì thắp hương khấn thần bếp, sau đó thắp hương ở tất cả các cửa, ngay cả chuồng trâu, chuồng lợn cũng phải cắm hương. Sau khi cúng xong thần bếp, đồ lễ một phần nhỏ sẽ được bỏ ra bát cho chó ăn trước rồi sau đó người mới được ăn. (Vì tương truyền chó có mang mấy hạt thóc đã cứu người Hà Nhì thoát chết đói sau một trận lũ lớn. Chính vì vậy mà từ đó đến nay người Hà Nhì luôn truyền miệng sự tích này và dặn con cháu phải xem con chó là vật cứu tinh trong đời sống vật chất lẫn tinh thần). Ngoài ra người Hà Nhì còn kiêng không ăn thịt ngựa vì họ quan niệm con ngựa là bạn đã giúp họ thồ chở hàng và ngày tết ngựa cũng sẽ được ăn cháo và đồ ăn ngon.[7]
Kết thúc Tết Nguyên Đán khoảng 2 tuần, người Hà Nhì lại chọn ngày để đón Tết thiếu nhi. Tết thiếu nhi sẽ tổ chức giữa tháng giêng hoặc cuối tháng giêng dựa vào cách tính của người Hà Nhì.
Trong Tết thiếu nhi, trẻ em được vui chơi, mặc quần áo mới. Người già mừng tuổi cho con cháu bằng trứng luộc đã nhuộm màu. Trẻ nhỏ ở những bản khác đến chơi cũng sẽ được tặng trứng. Sau Tết thiếu nhi, cứ 12 ngày mỗi gia đình sẽ cúng một lần, cúng hết 3 lần sẽ kết thúc...[7]
Trai gái Hà Nhì được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Dịp tết trai gái thường hẹn hò nhau lên những khu vực có ánh nắng mặt trời để nhảy dây, hát giao duyên. Nếu ngủ thử mà thấy hợp nhau thì nhà trai sẽ mang gạo, thịt lợn, gà sang để hỏi nhà gái xin con về làm dâu. Mỗi cặp vợ chồng, phải trải qua hai lần cưới. Ngay sau lần cưới trước, họ đã thành vợ chồng. Cũng ở Lai Châu, có nơi lại ở rể. Lần cưới thứ hai được tổ chức khi họ làm ăn khấm khá và thường là khi đã có con.[7]
Phong tục ma chay của các vùng không hoàn toàn giống nhau, nhưng có một số điểm chung: khi trong nhà có người chết, phải dỡ bỏ tấm liếp (hay rút một vài nan) của buồng người đó, phá bàn thờ tổ tiên, làm giường đặt tử thi ở bếp, chọn ngày giờ tốt mới chôn. Người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản, kiêng lấp đất lẫn cỏ tươi xuống huyệt, không rào dậu hay dựng nhà mồ, chỉ xếp đá quanh chân mộ...
Qua việc so sánh đối chiếu những tài liệu về nhà cửa của cá dân tộc này thì thấy rằng chỉ có nhà của người Hà Nhì là có những đặc trưng rõ rệt hơn. Tính thống nhất của các đặc trưng này còn được thể hiện trên những địa bàn khác nhau.
Nhà ở cổ truyền của người Hà Nhì là nhà đất. Bộ khung nhà khá đơn giản. Vì kèo cơ bản là kiểu vì kèo ba cột. Nhà có hiên rộng, người ta còn làm thêm một cột hiên nên trở thành vì bốn cột. Tường trình rất dày. Nhà không có cửa sổ, cửa ra vào cũng ít, phổ biến là chỉ có một cửa ra vào mở ở mặt trước nhà và lệch về một bên. Mặt bằng sinh hoạt: nhà thường ba gian, ít nhà bốn gian. Có hiên rộng ở mặt trước nhà. Trong nhà chia theo chiều dọc: nữa nhà phía sau là các phòng nhỏ. Nửa nhà phía trước để trồng, một góc nhà có giường dành cho khách, ở đây còn có bếp phụ. Trong bếp của người Hà Nhì luôn có một hòn đá, gọi hòn đá là Phu Chu Ma - có nghĩa là "thần bếp", hay còn gọi là "chủ bếp". Hòn đá thần thường cao khoảng 40 cm, rộng hơn 20 cm, được chôn sâu trong bếp cạnh nơi nấu nướng đồ ăn. Hòn đá mang về thờ phải được đào dưới đất lên, nơi nào con người chưa giẫm đạp hay đốt lửa thì mới lấy. Người Hà Nhì tin rằng không cúng thần bếp ngày Tết sẽ bị bắt tội. Hòn đá có ý nghĩa làm chủ đất, không chỉ tết mà mỗi khi vào nhà mới đều phải cúng thần bếp. Nếu trong trường hợp phải chuyển đi nơi khác, phải làm lễ mang hòn đá đi.[7]
Cũng có trường hợp hiên được che kín như là một hành lang hẹp thì cửa mở ở chính giữa. Những trường hợp như thế này thuộc về gian chính giữa hoặc thêm một gian bên cạnh có sàn cao khoảng 40 cm để dành cho khách, ở đây cũng có bếp phụ.
Phong cách trang phục giống các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ, và có phần không điển hình ở phong cách trang trí. Váy đen, chỉ có mũ, khăn hai ống tay và nẹp áo phụ nữ có trang trí. Trang trí ở ống tay giống phong cách Lô Lô và Hmông
Tên | Sinh thời | Hoạt động |
---|---|---|
Chu Lé Chừ | 1966 - ... | Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12, 13, 14 (2016 - 2021), quê xã Thu Lũm, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu [8] |