Les Misérables
| |
---|---|
Đạo diễn | Tom Hooper |
Kịch bản | William Nicholson Alain Boublil Claude-Michel Schönberg Herbert Kretzmer |
Dựa trên | Những người khốn khổ (nhạc kịch) của Alain Boublil và Claude-Michel Schönberg Les Misérables (tiểu thuyết) của Victor Hugo |
Sản xuất | Tim Bevan Eric Fellner Debra Hayward Cameron Mackintosh |
Diễn viên | Hugh Jackman Russell Crowe Anne Hathaway Amanda Seyfried Eddie Redmayne Helena Bonham Carter Sacha Baron Cohen |
Quay phim | Danny Cohen |
Dựng phim | Melanie Ann Oliver Chris Dickens |
Âm nhạc | Claude-Michel Schönberg |
Hãng sản xuất | |
Phát hành | Universal Pictures |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 158 phút[4] |
Quốc gia | Vương quốc Anh[5][6] |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh và tiếng Pháp |
Kinh phí | 61 triệu đô la Mỹ[7][8] |
Doanh thu | 441,809,770 đô la Mỹ[8] |
Những người khốn khổ (tựa gốc: Les Misérables) là một bộ phim nhạc kịch, sử thi, lãng mạn năm 2012 của nước Pháp được sản xuất bởi Working Title Films và do công ty con Universal Pictures phân phối. Bộ phim được Tom Hooper - vị đạo diễn từng nhận giải Oscar cho The King's Speech chỉ đạo nghệ thuật dựa trên tác phẩm văn học kinh điển của đại văn hào người Pháp Victor Hugo cùng với vở nhạc kịch cùng tên của hai nhạc sĩ Alain Boublil và Claude-Michel Schönberg. Les Misérables quy tụ dàn diễn viên xuất sắc và nổi tiếng của Hollywood tham gia, trong đó có Hugh Jackman, Russell Crowe, Anne Hathaway, Amanda Seyfried. Đây là bộ phim nhạc kịch đột phá nhất trong lịch sử điện ảnh vì đã lột tả được hết những giá trị kinh điển trong bức tranh xã hội Pháp đầy rắc rối lúc bấy giờ.
Lấy bối cảnh nước Pháp hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ 19 kể từ khi Napoleon I lên ngôi, Les Misérables kể về một câu chuyện cảm động của những giấc mơ tan vỡ, của tình yêu không được đáp trả, niềm đam mê, sự hy sinh và chuộc tội. Bộ phim là một minh chứng trường tồn theo năm tháng kể lại hành trình tồn tại của tinh thần con người. Nhân vật chính trong tác phẩm là Jean Valjean - một cựu tù nhân khổ sai đang cố chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ để khẳng định bản chất lương thiện cuối cùng trở thành thị trưởng của một thị trấn ở Pháp và cũng là chủ sở hữu một nhà máy may ở thành phố đó. Tuy nhiên, Jean Valjean luôn phải trốn chạy sự săn đuổi của Javert - tay thanh tra tàn nhẫn luôn lấy luật pháp làm kim chỉ nam trong cuộc đời để thi hành công lý. Một trong những công nhân trong nhà máy - nàng Fantine đã đổ lỗi cho Jean Valjean cũng chỉ vì anh mà cô đã lún sâu vào con đường mại dâm để kiếm tiền nuôi con. Khi Fantine chết vì bệnh lao phổi, Jean Valjean cảm thấy mình phải có trách nhiệm cưu mang cô con gái ngoài giá thú của nàng - Cosette, mặc dù anh vẫn đang sống lén lút để thoát khỏi sự truy lùng gắt gao của Javert. Năm tháng dần trôi, khi Cosette đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp thì cũng là lúc đất nước Pháp đang lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, đỉnh điểm cao trào là cuộc nổi dậy của những nhân dân cần lao thuộc đảng cộng hòa ở Paris năm 1832.
Les Misérables dựa trên vở nhạc kịch sân khấu bắt đầu vào cuối những năm 1980. Sau buổi hòa nhạc kỷ niệm lần thứ 25 kể từ khi ra mắt vở nhạc kịch này trong tháng 10 năm 2010, Cameron Mackintosh - nhà sản xuất của bộ phim Nhớ Sài Gòn và Bóng ma trong nhà hát cho biết rằng bộ phim tiếp tục đang trên đà tiến triển. Đạo diễn Hooper và nhà văn Nicholson tiếp nhận dự án trong tháng 3 năm 2011 và các nhân vật chính đã được lựa chọn vào năm 2011. Việc bấm máy khởi quay bắt đầu vào tháng 3 năm 2012,[9] diễn ra tại rất nhiều địa điểm khác nhau ở Vương quốc Anh, trong đó có Greenwich, Luân Đôn, Chatham, Winchester và Portsmouth cũng như tại xã Gourdon miền đông nam nước Pháp.
Les Misérables được công chiếu lần đầu tiên tại Luân Đôn vào ngày 5 tháng 12 năm 2012 và ra mắt ngày 25 tháng 12 năm 2012 tại Hoa Kỳ, 26 tháng 12 năm 2012 tại Úc, 11 tháng 1 năm 2013 tại Vương quốc Anh cũng như vào ngày 11 tháng 1 trong cùng năm tại Việt Nam.[3][8][10][11]
Bộ phim nhận được nhiều lời bình luận khác nhau, nhưng phần lớn đều là những đánh giá tích cực,[12] nhiều nhà phê bình khen ngợi các diễn viên Jackman, Hathaway, Redmayne và Barks về trình độ và khả năng nhập vai xuất sắc của họ, tạp chí Time đã phải thốt lên rằng "đây là một bộ phim nhạc kịch kiểu mới" vì toàn bộ dàn diễn viên được yêu cầu phải hát trực tiếp trong quá trình quay, micro giấu trong trang phục và phần đệm của dàn nhạc lên tới 70 người chỉ được thêm vào bộ phim sau khi đã quay xong.[13] Les Misérables đồng thời cũng giành được rất nhiều giải thưởng điện ảnh lớn nhỏ khác nhau, trong đó có ba giải quả cầu vàng ở hạng mục Phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất, Nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất cho Jackman và Nữ diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất dành cho Hathaway, bốn giải BAFTA trong đó Hathaway giành được một giải ở hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Bên cạnh đó, phim còn nhận được tám đề cử giải Oscar trong đó được đề cử hạng mục Phim xuất sắc nhất (vở nhạc kịch đầu tiên được đề cử kể từ khi Chicago chiến thắng cùng hạng mục vào năm 2002), Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Jackman và giành được ba giải là Âm thanh hay nhất, Hóa trang xuất sắc nhất và Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất dành cho Hathaway.[14]
Câu chuyện về Jean Valjean, người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. Sau 19 năm ngồi tù với số tù 24601 vì ăn cắp một mẩu bánh mì cho con của người chị gái, người nông dân Jean Valjean được thả. Tuy nhiên anh phải mang theo giấy thông hành vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó từng phạm tội, vì vậy Jean bị chủ quán trọ từ chối và buộc phải ngủ ngoài đường. May cho anh là giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu. Khi mọi người đã ngủ, Jean lại ăn cắp mấy thứ đồ bạc của giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay vị giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người.
8 năm sau Valjean, nay mang tên ông Madeleine, đã trở thành một chủ xưởng giàu có và là thị trưởng thành phố nhỏ nơi ông sinh sống, Valjean phải mang tên giả để tránh sự phát hiện của thanh tra Javert vẫn đang truy tìm ông ráo riết. Trong xưởng của ông có rất nhiều công nhân, trong đó có Fantine. Cô thường xuyên bị người quản đốc dòm ngó. Trong một lần trêu đùa, người công nhân khác tình cờ đọc một lá thư của cô, cô bị quy tội là một cô gái lẳng lơ khi không chồng mà có con. Vì lý do vô lý này mà tên quản đốc đã đuổi cô ra khỏi xưởng làm việc. Lại nói về Jean, số phận buộc Valjean phải để lộ danh tính của mình khi một người đàn ông khác bị nhầm là Jean Valjean và bị bắt đưa ra tòa. Cùng lúc này, Valjean gặp lại Fantine, đang hấp hối vì bệnh lao sau khi bị đuổi việc khỏi công xưởng của ông và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette đang phải sống với gia đình nhà Thénardier độc ác. Trước khi Fantine chết, Valjean hứa với cô sẽ chăm sóc Cosette cẩn thận, ông trả tiền cho lão chủ quán trọ Thénardier để giải phóng cho Cosette và cùng cô bé chạy trốn lên Paris khỏi sự truy đuổi của Javert. Ở Paris, hai người trú trong một nhà tu kín mà Javert không được quyền khám xét, vì vậy họ tạm thoát khỏi sự truy lùng gắt gao của viên thanh tra.
9 năm sau, sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche. Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy- một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm quyền tự do của mình- đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp. Sau khi thỏa thuận với Javert về việc giao nộp Vanjean cho hắn, bọn chúng đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu Marius và cô đã thuyết phục bọn họ rời khỏi đó.
Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị Gavroche phát hiện và Enjolras đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris. Khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn.
Marius và Cosette cưới nhau. Trước lễ cưới, Valjean đã kể hết cho Marius về quá khứ của mình. Ông quyết định bỏ đi mà không hề cho Cosette hay biết. Trong lễ cưới, vợ chồng Thénardier cải trang và trà trộn thành những người quý tộc để trộm cắp. Tuy nhiên, bọn chúng bị Marius phát hiện và yêu cầu rời khỏi lễ cưới. Gia đình Thénardier vô tình tiết lộ về việc Valjean đang sống trong một thánh đường và yêu cầu Marius phải cho chúng một khoản tiền nếu muốn việc này không đến tai cảnh sát. Họ nhanh chóng chạy thật nhanh dến nhà thờ nơi Valjean sống, lúc này ông đang hấp hối, Marius lúc này mới nhận ra được lòng tốt của ông và ông chính là người dã cứu sống anh trong thời khắc trên chiến trường. Ông rất hạnh phúc khi ở bên là đứa con gái nuôi yêu quý và con rể. Ông nói với họ rằng ông rất yêu quý họ và đưa cho Cosette một lá thư. Ông dặn rằng lá thư này kể về cuộc đời của ông trước khi nhận nuôi cô và cô chỉ được mở ra khi ông nhắm mắt. Bỗng ông nghe thấy tiếng hát vang vọng của Fantine, cô đang đến để đưa ông về với chúa, sau đó Valjean qua đời.
Bộ phim kết thúc bằng hình ảnh hết sức hào hùng của tất cả những người đã ngã xuống trong toàn bộ câu chuyện. Tất cả họ cùng hát với một ý chí quyết tâm trên một bức tường thành vĩ đại dựng lên bằng tất cả vật dụng trong gia đình. Họ nhìn về phía trước, lá cờ đỏ phấp phới đầy niềm tự hào.
Trong buổi thử vai, Hathaway mất gần ba tiếng trò chuyện với đạo diễn Hooper và sau đó là một tháng trời đằng đẵng mong ngóng để được góp mặt vào câu chuyện lịch sử của Hugo trên màn ảnh rộng. Khi chính thức được chọn, Hathaway thổ lộ: "Hồi đó có nhiều sự phản đối vì độ tuổi của tôi không phù hợp cho vai diễn, không đủ lớn cho vai Fantine mà cũng không đủ trẻ cho vai Cosette. Nhưng tôi thật sự muốn được đóng vai này."[16] Còn khi được hỏi về nhân vật của mình, Seyfried cho biết: "Cosette là nguồn sáng, là biểu tượng của tình yêu, sự hy vọng trong thảm kịch này. Vì vậy nhiệm vụ của tôi là phải khắc họa được một cô bé với cuộc đời đầy bất hạnh nhưng luôn có nghị lực và niềm tin phi thường vào cuộc sống trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể. Đó quả là một vai diễn tuyệt vời dành cho tôi."[23] Một huấn luyện viên có nhiệm vụ giúp đỡ hai nữ diễn viên cải thiện khả năng thanh nhạc khi hát trực tiếp trước máy quay.[24] Vai diễn Cossette lúc còn là một đứa trẻ do cô bé Isabelle Allen đảm nhận.[25] Tài năng diễn xuất của Isabelle Allen được chuyên gia Jeremy Taylor (làm việc tại Nhà hát Quốc gia âm nhạc thanh niên - một tổ chức nghệ thuật ở Luân Đôn nước Anh) phát hiện sau khi ông theo dõi cô bé hóa thân thành một cậu bé què trong một vở kịch nhỏ ở trường học. Sau đó, ông Jeremy Taylor đã động viên và hỗ trợ cha mẹ Isabelle Allen đưa cô bé đi thử vai cho bộ phim. Chia sẻ về khoảnh khắc biết mình được nhận vai, Isabelle Allen cho biết: "Khi cháu biết mình được chọn, cháu rất vui mừng. Cháu cứ nhảy lên nhảy xuống trên giường. Nhưng rồi cháu cũng hơi sợ và lo lắng, bởi vì cháu không biết sẽ phải làm những gì" và trong ngày bấm máy quay làm việc với đoàn diễn viên kì cựu nhất nhì của Hollywood, Allen tâm sự: "Tất cả những người nổi tiếng đều rất tốt bụng, luôn giúp đỡ để cháu cảm thấy thoải mái nhất. Chú Russell Crowe thân thiện nhưng cũng rất nghiêm khắc, chị Amanda Seyfried lúc nào cũng động viên cháu..."[26][27]
STT | Tên bài | Nghệ sĩ |
---|---|---|
1 | Look Down | Hugh Jackman |
2 | The Bishop | Colm Wilkinson |
3 | Valjean’s Soliloquy | Hugh Jackman |
4 | At the End of the Day | Hugh Jackman |
5 | I Dreamed a Dream | Anne Hathaway |
6 | The Confrontation | Hugh Jackman |
7 | Castle on a Cloud | Isabelle Allen |
8 | Master of the House | Sacha Baron Cohen |
9 | Suddenly | Hugh Jackman |
10 | Stars | Russell Crowe |
11 | ABC Café/Red & Black | Eddie Redmayne |
12 | In My Life/A Heart Full of Love | Amanda Seyfried |
13 | On My Own | Samantha Barks |
14 | One Day More | Les Misérables Cast |
15 | Drink With Me | Aaron Tveit |
16 | Bring Him Home | Hugh Jackman |
17 | The Final Battle | Les Misérables Cast |
18 | Javert’s Suicide | Russell Crowe |
19 | Empty Chairs At Empty Tables | Eddie Redmayne |
20 | Epilogue | Les Misérables Cast |
Giải thưởng | Ngày trao giải | Hạng mục | Đề cử cho | Kết quả | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
Giải Oscar | 24 tháng 2 năm 2013 | Phim hay nhất | Tim Bevan, Eric Fellner, Debra Hayward và Cameron Mackintosh | Đề cử | [47] |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Ca khúc trong phim hay nhất | "Suddenly" (sản xuất bởi Claude-Michel Schönberg, lời của Herbert Kretzmer và Alain Boublil) | Đề cử | |||
Thiết kế trang phục xuất sắc nhất | Paco Delgado | Đề cử | |||
Hóa trang xuất sắc nhất | Lisa Westcott và Julie Dartnell | Đoạt giải | |||
Hòa âm hay nhất | Andy Nelson, Mark Paterson và Simon Hayes | Đoạt giải | |||
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Eve Stewart và Anna Lynch-Robinson | Đề cử | |||
Viện phim Mỹ | 11 tháng 1 năm 2013 | Phim của năm | Đoạt giải | [48] | |
Giải thưởng phim quốc tế AACTA | 28 tháng 1 năm 2013 | Phim xuất sắc nhất | Tim Bevan, Eric Fellner, Debra Hayward và Cameron Mackintosh | Đề cử | [49] |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Giải BAFTA | 10 tháng 2 năm 2013 | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | [50] | |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Thuật quay phim xuất sắc nhất | Danny Cohen | Đề cử | |||
Thiết kế trang phục xuất sắc nhất | Paco Delgado | Đề cử | |||
Hóa trang xuất sắc nhất | Lisa Westcott | Đoạt giải | |||
Âm thanh xuất sắc nhất | Simon Hayes, Andy Nelson, Mark Paterson, Jonathan Allen, Lee Walpole và John Warhurst | Đoạt giải | |||
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Eve Stewart và Anna Lynch-Robinson | Đoạt giải | |||
Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh | 10 tháng năm 2013 | Phim hay nhất | Đề cử | [51] | |
Dàn diễn viên diễn xuất tốt nhất | Dàn diễn viên của Les Misérables | Đề cử | |||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Đạo diễn xuất sắc nhất | Tom Hooper | Đề cử | |||
Ca khúc trong phim hay nhất | "Suddenly" | Đề cử | |||
Thuật chiếu phim xuất sắc nhất | Danny Cohen | Đề cử | |||
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Eve Stewart và Anna Lynch-Robinson | Đề cử | |||
Biên tập xuất sắc nhất | Chris Dickens | Đề cử | |||
Thiết kế trang phục xuất sắc nhất | Paco Delgado | Đề cử | |||
Hóa trang xuất sắc nhất | Lisa Westcott | Đoạt giải | |||
Hiệp hội phê bình phim Chicago | 17 tháng 12 năm 2012 | Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đề cử | [52] |
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Eve Stewart và Anna Lynch-Robinson | Đề cử | |||
Thành tích triển vọng nhất | Samantha Barks | Đề cử | |||
Giải Liên hoan đạo diễn phim Mỹ | 2 tháng 2 năm 2013 | Thành tựu của đạo diễn xuất sắc nhất trong phim | Tom Hooper | Đề cử | |
Giải Quả cầu vàng | 13 tháng 1 năm 2013 | Phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất | Đoạt giải | [53] | |
Nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đoạt giải | |||
Nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Kịch bản xuất sắc nhất | "Suddenly" | Đề cử | |||
Liên hoan phim Hollywood | 23 tháng 10 năm 2012 | Đoạn video giới thiệu xuất sắc nhất | Erin Wyatt | Đoạt giải | [54] |
Nhà sản xuất của năm | Tim Bevan, Eric Fellner, Debra Hayward và Cameron Mackintosh | Đoạt giải | |||
Giải thưởng nổi bật | Samantha Barks | Đoạt giải | |||
Hiệp hội phê bình phim Houston | 5 tháng 1 năm 2013 | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | ||
Đạo diễn xuất sắc nhất | Tom Hooper | Đề cử | |||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Thuật chiếu phim xuất sắc nhất | Danny Cohen | Đề cử | |||
Ca khúc trong phim hay nhất | "Suddenly" | Đoạt giải | |||
Giải thưởng phê bình phim Lancashire lần thứ 5 | 30 tháng 3 năm 2013 | Phim xuất sắc nhất | Đoạt giải | [55] | |
Đạo diễn xuất sắc nhất | Tom Hooper | Đoạt giải | |||
Hiệp hội phê bình phim London | 20 tháng 1 năm 2013 | Phim của năm | Đề cử | ||
Nam diễn viên chính của năm | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ của năm | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Màn trình diễn diễn viên nhỏ tuổi của năm | Samantha Barks | Đề cử | |||
Hiệp hội phê bình phim Los Angeles | 9 tháng 12 năm 2012 | Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway (cũng được đề cử trong The Dark Knight Rises) |
Đề cử | |
Giải Điện ảnh của MTV | 14 tháng 4 năm 2013 | Màn trình diễn vai nữ chính xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đề cử | [56] |
Màn trình diễn đột phá xuất sắc nhất | Eddie Redmayne | Đề cử | |||
Giây phút âm nhạc xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đề cử | |||
Giải thưởng của Hội phê bình phim New York | 3 tháng 12 năm 2012 | Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway (cũng được đề cử trong The Dark Knight Rises) |
Đề cử | |
Giải thưởng của Hội phê bình phim New York trực tuyến | 3 tháng 12 năm 2012 | Phim của năm | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Giải nhà sản xuất phim Mỹ | 26 tháng 1 năm 2013 | Sân khấu điện ảnh xuất sắc nhất | Tim Bevan, Eric Fellner, Debra Hayward và Cameron Mackintosh | Đề cử | [57] |
Giải truyền hình qua vệ tinh | 16 tháng 12 năm 2012 | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | [58] | |
Dàn diễn viên xuất sắc nhất | Dàn diễn viên của Les Misérables | Đoạt giải | |||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Eddie Redmayne | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Samantha Barks | Đề cử | ||||
Sản xuất và chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Eve Stewart và Anna Lynch-Robinson | Đề cử | |||
Thiết kế trang phục xuất sắc nhất nhất | Paco Delgado | Đề cử | |||
Biên tập xuất sắc nhất nhất | Chris Dickens | Đề cử | |||
Ca khúc trong phim hay nhất | "Suddenly" | Đoạt giải | |||
Hiệu ứng âm thanh xuất sắc nhất | John Warhurst, Lee Walpole và Simon Hayes | Đoạt giải | |||
Giải Sao Thổ | 26 tháng 6 năm 2013 | Phim hành động/mạo hiểm hay nhất | Đề cử | [59] | |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đề cử | |||
Diễn viên trẻ xuất sắc nhất | Daniel Huttlestone | Đề cử | |||
Trang phục đẹp nhất | Paco Delgado | Đoạt giải | |||
Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất | Eve Stewart | Đề cử | |||
Giải thưởng của Hội Diễn viên Điện ảnh | 27 tháng 1 năm 2013 | Màn trình diễn vượt trội của dàn diễn viên trong phim | Dàn diễn viên của Les Misérables | Đề cử | [60] |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Anne Hathaway | Đoạt giải | |||
Diễn viên đóng thế xuất sắc nhất | Đề cử | ||||
Hiệp hội các nhà phê bình phim Washington D.C. | 10 tháng 12 năm 2012 | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | [61] | |
Diễn xuất cảnh hành động xuất sắc nhất | Dàn diễn viên của Les Misérables | Đoạt giải | |||
Đạo diễn xuất sắc nhất | Hugh Jackman | Đề cử | |||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Samantha Barks | Đề cử | |||
Anne Hathaway | Đoạt giải | ||||
Đạo diễn xuất sắc nhất | Tom Hooper | Đề cử | |||
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | Eve Stewart và Anna Lynch-Robinson | Đề cử | |||
Thuật chiếu phim xuất sắc nhất | Danny Cohen | Đề cử | |||
Giải nghệ sĩ trẻ tuổi | 5 tháng 5 năm 2013 | Nam diễn viên phụ trẻ tuổi xuất sắc nhất | Daniel Huttlestone | Đề cử | [62] |
Nữ diễn viên phụ trẻ tuổi xuất sắc nhất | Isabelle Allen | Đoạt giải |
|d=
(trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
không hợp lệ: tên “BOM” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác