Phạm Gia Triệu sinh ngày 15 tháng 1 năm 1918 trong một gia đình có truyền thống Nho học tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.[a][4] Cụ nội của ông là Phạm Ngọc Chất, đỗ Cử nhân trong khoa thi Giáp Tuất năm 1874, làm quan đến Tri phủTĩnh Gia, Thanh Hóa. Ông nội ông là Phạm Ngọc Đoan, đỗ Phó bảng khoa thi Tân Sửu năm 1901 (cùng khoa với Phan Châu Trinh), làm quan giáo thụ nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.[5] Cha mẹ ông qua đời khi ông còn nhỏ, ông được họ hàng nuôi dưỡng và người chú ruột là Phạm Tư Tề cho đi học. Sau khi học xong cấp hai ở Nam Định, ông lên Hà Nội, vừa đi làm thêm vừa học hết Tú tài. Về sau, ông theo học Trường Đại học Y Hà Nội.[6]
Năm 1943, ông được công nhận là sinh viên nội trú dự bị,[b] rồi chính thức[c] của các bệnh viện Hà Nội chủ yếu là Bệnh viện Yersin và Bệnh viện De Lanessan. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 kết thúc, ông đang học nội trú tại Bệnh viện De Lanessan. Theo quyết định của Chính phủ, ông được công nhận tốt nghiệp bác sĩ y khoa. Tháng 11 năm 1945, ông nhập ngũ vào quân y, đảm nhiệm Trưởng ban Quân y Đông Triều (cơ sở y tế đầu tiên của Đệ tứ Chiến khu,[d] sau này là Quân y Trung đoàn 98).[8]
Tháng 7 năm 1955, ông được cử đi học phẫu thuật thần kinh ở Liên Xô. Và đến năm 1961, ông bảo vệ thành công luận văn Tiến sĩ Y khoa với đề tài "U nhú đám rối màng mạch não thất IV". Sau khi về nước, ông được bổ nhiệm làm Viện phó Ngoại khoa Viện Quân y 108 kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại, Trường Sỹ quan Quân y. Năm 1963, ông cho ra mắt cuốn sách "Chấn thương thần kinh" – đây là cuốn sách về phẫu thuật thần kinh đầu tiên ở Việt Nam.[11]
Trong suốt những năm từ 1961, ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ như Phó Chủ tịch Hội Ngoại khoa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Thần kinh, Tâm thần và Phẫu thuật Thần kinh Việt Nam;[12] có hàng loạt công trình khoa học về u não, về bệnh lý mạch máu não và vết thương sọ não - cột sống.[13] Ông là một trong những bác sĩ về thần kinh hàng đầu Việt Nam thời kỳ này, cũng như là người xây dựng ngành phẫu thuật thần kinh trong quân đội. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, khi vẫn còn là một Thượng tá,[14] ông được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, trở thành bác sĩ quân y Việt Nam đầu tiên được tặng thưởng danh hiệu này.[15]
Năm 1975, ông tiếp quản Tổng Y viện Cộng Hòa (nay là Bệnh viện Quân y 175), trực tiếp tham gia vào Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 6, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất. Lúc này, ông mang quân hàm Đại tá.[16] Năm 1980, ông chuyển công tác sang Hội đồng Y học Quân sự Bộ Quốc phòng, không đảm nhiệm Viện phó Viện Quân y 108 nhưng ông vẫn là chuyên viên và tiếp tục công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện. Cũng trong năm này, ông được phong hàm Giáo sư,[17] là chuyên gia đầu ngành của y học Việt Nam và sau đó là danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân vào năm 1989.[18] Đến năm 1990, sức khỏe ông bắt đầu yếu dần vì bệnh ung thư tuyến tiền liệt,[19] và đến ngày 13 tháng 6 thì qua đời thọ 73 tuổi.[20]
Bác sĩ quân y Phạm Gia Triệu đã đi sâu nghiên cứu và thành công trong việc mổ sọ não, điều trị vết thương nặng ở sọ não, có nhiều cống hiến trong việc xây dựng khoa học phẫu thuật thần kinh và đào tạo bác sĩ chuyên khoa.
^Ngày sinh 15 tháng 1 năm 1918 là thông tin trên lý lịch của Phạm Gia Triệu. Tuy nhiên, con trai ông cho biết ông sinh năm Thìn, có khả năng là ngày 15 tháng 1 năm 1917, trước Tết Đinh Tỵ, năm âm lịch vẫn là năm Bính Thìn.[3]
^Ngày 8 tháng 6 năm 1945, lực lượng vũ trang và nhân dân lao động từ huyện lỵ Đông Triều cho đến khu mỏ Mạo Khê, Tràng Bạch và cả các huyện Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách (tỉnh Hải Dương) đồng loạt đánh chiếm các đồn của binh lính Nhật, giành được chính quyền và tuyên bố thành lập Chiến khu Đông Triều (còn tên gọi Đệ tứ Chiến khu hay Chiến khu Trần Hưng Đạo).[7]
^TNO (24 tháng 1 năm 2012). “Ngôi làng có 60 giáo sư, phó giáo sư”. Đài tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2021.
^Hoàng Việt; Thu Thảo (3 tháng 6 năm 2021). “Bắc Hà - Hành Thiện”. Báo điện tử Quân đội Nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2021. Truy cập 8 tháng 7 năm 2021.