Hiện tại có nhiều tiêu bản nhồi bông có thể được tìm thấy ở Nhật Bản [6] và trong bảo tàng lịch sử tự nhiên, Leiden, Hà Lan, được Philipp Franz von Siebold mua.[4] Bảo tàng Anh cũng sở hữu một bộ da và 4 tiêu bản hộp sọ.[4]
Nhiều xương của sư tử biển Nhật Bản được đào từ shell midden có từ thời kỳ Jōmon ở Nhật Bản[7][8][9] trong khi một cuốn bách khoa toàn thư thể kỷ 18 Wakan Sansai Zue thì mô tả rằng thịt nó không ngon và chúng chỉ được dùng để lấy dầu dùng trong đèn dầu.[10] Dầu có giá trị được tách từ da, nội tạng được dùng làm thuốc trị liệu đắt đỏ, và râu và da của nó được dùng để tẩy rửa đường ống và các sản phẩm da. Đến thế kỷ 20, chúng được bắt để làm thú xiếc.[1]
^(tiếng Nhật)Zalophus californianus japonicus (CR)Lưu trữ 2011-06-05 tại Archive.today, Red Data Book, Japan Integrated Biodiversity Information System, Ministry of the Environment (Japan). "The Japanese sea lion (Zalophus californianus japonicus) was common in the past around the coast of the Japanese Archipelago, but declined rapidly after the 1930s from overhunting and increased competition with commercial fisheries. The last record in Japan was a juvenile, captured in 1974 off the coast of Rebun Island, northern Hokkaido."
^Terajima Ryōan, Wakan Sansai Zue (ca. 1712), vol. 38, Amimals, p. 72, sea lion and fur seal[1] "其肉亦不甘美 唯熬油為燈油 (the meat is not tasty and just used to render oil for oil lamps.)".