Slow (bài hát của Kylie Minogue)

"Slow"
Đĩa đơn của Kylie Minogue
từ album Body Language
Mặt B
  • "Soul on Fire"
  • "Sweet Music"
Phát hành3 tháng 11 năm 2003 (2003-11-03)
Thu âm2003; Luân Đôn, Anh
Thể loạiSynthpop
Thời lượng3:15
Hãng đĩaParlophone
Sáng tác
Sản xuất
  • Dan Carey
  • Emilíana Torrini
  • Sunnyroads
Thứ tự đĩa đơn của Kylie Minogue
"Come into My World"
(2002)
"Slow"
(2003)
"Red Blooded Woman"
(2004)

"Slow" là bài hát của nữ ca sĩ người Úc Kylie Minogue. Bài hát phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên bởi hãng thu âm Parlophone, trích từ album phòng thu thứ 9 Body Language (2003) vào ngày 3 tháng 11 năm 2003. Bài hát do Minogue, Dan CareyEmilíana Torrini sáng tác trong khi được Carey, Torrini và Sunnyroads sản xuất. "Slow" là bài hát nhạc synthpop mà Minogue mời gọi một người "chậm lại" và nhảy cùng cô.

Từ khi phát hành, các nhà phê bình khen ngợi "Slow", với nhiều ý kiến tán thưởng chất giọng gợi tình của cô. Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 47, bài hát nhận đề cử cho "Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất". Về mặt thương mại, bài hát đạt thành công khi vươn đến ngôi đầu bảng tại nhiều bảng xếp hạng ở các quốc gia như Úc, Đan Mạch, Tây Ban Nha và Anh Quốc. Tại Hoa Kỳ, bài hát cũng giành ngôi quán quân tại Billboard Hot Dance Club Songs. Đến nay, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) đã chứng nhận Bạch kim cho bài hát này với doanh số 70.000 bản.

Một video âm nhạc cho bài hát được ghi hình tại Barcelona, Tây Ban Nha với nhiều cảnh Minogue trình bày bài hát lúc đang tắm nắng gần bể bơi Piscina Municipal de Montjuïc. Nhằm quảng bá cho bài hát, Minogue còn trình diễn trong nhiều chương trình truyền hình và toàn bộ các chuyến lưu diễn của cô, ngoại trừ Anti Tour. Năm 2012, Minogue xướng danh "Slow" là bài há yêu thích trong sự nghiệp âm nhạc của mình.

Sáng tác và phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

"Slow" do Minogue, Dan CareyEmilíana Torrini sáng tác trong khi được Carey, Torrini và Sunnyroads sản xuất.[1] Vào năm 2009, Torrini tiết lộ cách mà cô sáng tác bài hát này, "Mọi chuyện khá kỳ lạ. Tôi vẫn nghĩ người của Kylie cố gắng gọi cho Jamelia nhưng thay vào đó lại gọi nhầm đến số của tôi. Mọi chuyện có lẽ sẽ thú vị hơn nếu diễn ra như cũ".[2]

Về nhạc lý, bài hát này mang giai điệu synthpop lấy cảm hứng từ thập niên 1980.[3] Bài hát sản xuất một cách giản dị và "tối giản", được Sal Cinquemani từ Slant Magazine mô tả như một "hỗn hợp electro-pop/disco với nhịp tanh-tách-và-pop cùng chất giọng ghi đè ngọt ngào".[3] Ngoài ra, bài hát còn có các yếu tố của electroclash và nhạc sàn.[4] Xuyên suốt bài hát, Minogue thúc giục một người đàn ông mà cô gặp tại một hộp đêm hãy "chậm lại" và nhảy cùng cô.[5] Theo Minogue, ca từ của bài hát kể về "cách mà thời gian và không gian có một ý nghĩa khác nhau khi bạn gặp một người [mà bạn rất mến]".[6] Cô còn "yêu thích cách mà bài hát sở hữu hiệu ứng đẩy–kéo; sự kết hợp giữa nhạc khí và ca từ khiến cho bạn có cảm giác ấy".[6] Cuối năm 2012, "Slow" cùng 16 bài hát khác được thu âm lại trong album giao hưởng tổng hợp The Abbey Road Sessions, với mong muốn "tưởng tượng lại những bài hát này khi không còn nét hào nhoáng disco và hiệu ứng giọng hát".[7] "Slow" lần này mang ảnh hưởng của dòng nhạc jazztrip hop, trong khi Minogue tiếp tục phô bày chất giọng gợi tình xuyên suốt bài hát.[7][8]

"Slow" phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu thứ 9 của Minogue Body Language vào ngày 3 tháng 11 năm 2003.[9] Bìa trước của đĩa đơn cho thấy Minogue trong chiếc áo crop-top sọc trắng đen, lộ vùng bụng cùng chiếc quần cắt thấp. Hình ảnh của cô có nét tương đồng với nữ diễn viên và ca sĩ người Pháp Brigitte Bardot,[6] người được xem là "ngôi sao nước ngoài đầu tiên đạt được cấp độ thành công quốc tế so với các tài năng bản địa phổ biến nhất nước Mỹ" và là một trong những biểu tượng gợi cảm nổi danh trong thập niên 1950 và 1960.[10][11] Minogue mô tả buổi chụp ảnh như là "sự pha trộn hoàn hảo giữa ve vãn, đỏng đảnh và rock 'n' roll" và tiết lộ "Chúng tôi đã chụp nó tại một địa điểm phía Nam nước Pháp, thế nên rất [dễ dàng để] tái hiện lại tinh thần của [Brigitte] Bardot. Cô ấy là một biểu tượng tuyệt vời, đặc biệt là thời gian khi cô hợp tác cùng Serge Gainsbourg".[6]

Tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Minogue đang trình diễn tại đêm nhạc Money Can't Buy để quảng bá cho Body Language.[12]

"Slow" được các nhà phê bình khen ngợi. Ethan Brown từ New York đề cao phần sản xuất của bài hát và cho rằng đây nên là "bản mẫu cho các ca sĩ nhạc pop ưa thích nghệ thuật".[13] Adrien Begrand từ PopMatters gọi đây là "một trong những đĩa đơn mạnh mẽ nhất" trong sự nghiệp của Minogue, khen ngợi tính tối giản và cải biên giản dị của bài hát.[14] Đánh giá của tạp chí Spin tán dương chất giọng "mời gọi các chàng trai" của Minogue.[15] Eric Seguy từ Stylus Magazine yêu mến chất giọng mời gọi của Minogue, cho rằng khán giả "sẵn lòng đáp ứng bất kỳ những điều cần thiết để làm cô cảm kích".[16] Sal Cinquemani từ Slant Magazine cảm thấy đây là "một số ít bài hát trong Body Language mang đến nhiệt huyết tại các hộp đêm của Fever".[3] Chris True từ AllMusic chọn đây là điểm nhấn của album Body Language.[4]

Phiên bản The Abbey Road Sessions của bài hát cũng nhận những phản hồi tích cực. Tim Sendra từ AllMusic cảm mến "nhịp trip-hop ngột ngạt" trong bài hát và chọn đây là điểm nhấn của album.[7] Nick Levine từ BBC Music cảm thấy "Slow" là "sự lột xác đáng kinh ngạc nhất" trong album và mô tả là "sự hòa hợp của dòng jazz uyển chuyển, hoàn chỉnh cùng chất giọng đệm".[8] Trong khi Annie Zaleski từ The A.V. Club đề cao "nét quyến rũ uyển chuyển" của bài hát,[17] Philip Matusavage từ MusicOMH lại tán dương các âm hưởng jazz và cho rằng "Kylie và jazz có thể cho ra kết quả mỹ mãn".[18] Dù vậy, Jude Rogers từ The Quietus cảm thấy bài hát "không phản ứng tốt trước sự đối đãi (của dàn nhạc khí)".[19]

Sal Cinquemani từ Slant Magazine gọi "Slow" là "một trong những bài hát nóng bỏng nhất của năm" và đưa vào danh sách "10 Đĩa đơn & Video của năm 2004" ở vị trí thứ 5.[20] Tại lễ trao giải Ivor Novello Awards 2004, "Slow" giành đề cử tại "Bài hát đương đại xuất sắc nhất" và "Bài hát ăn khách của năm" nhưng lần lượt thất bại trước "Stronger Than Me" của Amy Winehouse và "White Flag" của Dido.[21][22] Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 47 diễn ra vào năm 2005, "Slow" giành đề cử cho "Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất", nhưng để lỡ vào tay "Toxic" của Britney Spears.[23] Trong ngày lễ Tình nhân năm 2012, tổ chức bản quyền và trình diễn Anh Quốc PRS for Music xuất bản một danh sách gồm "những bài hát gợi cảm nhất" và xếp "Slow" ở vị trí cao nhất.[24] Vào năm 2012, Minogue chọn "Slow" là bài hát yêu thích nhất trong sự nghiệp 25 năm ca hát.[25]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại quê nhà Úc, "Slow" đạt đến vị trí đầu bảng và có 11 tuần trụ hạng trên Australian Singles Chart.[1] Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc sau đó chứng nhận đĩa Bạch kim cho bài hát với doanh số 70.000 bản.[26] Tại Áo, bài hát mở đầu tại Austrian Singles Chart ở vị trí thứ 24, sau đó vươn đến vị trí thứ 20 và có tổng cộng 13 tuần xếp hạng.[27] Tại khu vực Flanders sử dụng tiếng Hà Lan tại Bỉ, bài hát lọt vào bảng xếp hạng Ultratop tại vị trí thứ 15 và sau cùng đạt đến vị trí thứ 9, với tổng cộng 10 tuần trụ hạng.[27] Tại Canada, bài hát đạt vị trí thứ 6 trên Canadian Singles Chart.[28] Tại Đan Mạch, bài hát vươn đến ngôi đầu bảng trên Danish Singles Chart và có 9 tuần xuất hiện trong xếp hạng.[29] Tại Pháp, bài hát đạt đến vị trí thứ 45 và có 18 tuần nằm trong bảng xếp hạng French Singles Chart.[30] Tại Đức, bài hát vươn đến vị trí thứ 8 trên German Singles Chart.[31] Tại Ý, bài hát xuất hiện trên Italian Singles Chart ở vị trí thứ 9 và sau cùng leo lên vị trí thứ 6 với 8 tuần xếp hạng.[32] Tại New Zealand, bài hát đạt vị trí thứ 9 trên New Zealand Singles Chart với 6 tuần xếp hạng.[33] "Slow" còn mở màn ở vị trí quán quân tại Tây Ban Nha.[34]

Tại Anh Quốc, đây là đĩa đơn thứ 7 của Minogue đạt ngôi quán quân trên UK Singles Chart.[35][36] Bài hát còn giúp cô đạt kỷ lục cho nữ nghệ sĩ có thời gian đạt ngôi dẫn đầu lâu nhất tại Anh.[9] Tính đến nay, đây là đĩa đơn sau cùng của cô đạt đến ngôi đầu bảng tại Anh.[37] Đĩa đơn còn trụ lại ở top 10 trong 2 tuần và ở top 10 trong 14 tuần.[38] Tại Hoa Kỳ, "Slow" dù chỉ vươn đến vị trí thứ 91 trên Billboard Hot 100[39] nhưng lại là nhà quán quân tại Hot Dance Club Songs.[28][40] Đây cũng là bài hát xếp hạng sau cùng của Minogue tại Billboard Hot 100 cho đến hiện nay.[39]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Một cảnh trích từ video cho thấy Minogue được quay từ góc máy trên không. Minogue mặc một chiếc váy Balenciaga bó màu xanh đậm trong video.[41]

Video âm nhạc cho "Slow" do Baillie Walsh đạo diễn và Michael Rooney biên đạo.[42] Video ghi hình tại Barcelona, Tây Ban Nha[43] và bắt đầu bằng cảnh một người đàn ông đang nhảy cầu tại hồ bơi Piscina Municipal de Montjuïc[44] rồi sau đó bước ra thềm, nơi nhiều người đang mặc đồ tắm biển đang tắm nắng. Minogue xuất hiện theo một loạt cảnh quay phóng to khác nhau khi đang nằm trên một tấm khăn màu xanh da trời và mặc một chiếc váy Balenciaga bó màu xanh đậm.[41] Các cảnh quay tiếp theo cho thấy cô đang hát theo nhiều góc máy khác nhau, đặc biệt trong đoạn điệp khúc khi chuyển sang góc máy trên không và cho thấy Minogue đang thực hiện vũ đạo theo nhịp điệu đồng loạt cùng những người mẫu bãi biển khác.[43] Nhằm quảng bá cho bài hát, video âm nhạc này được trình làng sớm hơn ngày phát hành đĩa đơn, vào ngày 21 tháng 10 năm 2003.[42] Minogue chia sẻ về video:

"Video này ghi hình tại địa điểm Olympic Diving ở Barcelona. Tôi nằm xuống trong suốt video, điều mà tôi cứ tưởng là một kế hoạch vô cùng gian lận. Thế nhưng khi phải hát trước máy ghi hình lúc mặt trời đang rọi thẳng, nước mắt tôi cứ tuôn mãi thôi! Các video âm nhạc luôn có một khoảnh khắc đau đớn. Hoặc là quá nóng hoặc là quá lạnh hoặc luôn có một điều gì đó. Đó là một phần của cuộc vui, tôi nghĩ thế"[6]

District MTV chia sẻ video cho thấy "tắm nắng đồng bộ vui nhộn hơn những gì ta tưởng".[43] Ben Taylor từ Swide Magazine xếp video vào danh sách "Những khoảnh khắc video âm nhạc xuất sắc nhất" của Minogue.[45]

Trình diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]
Minogue đang trình diễn "Slow" trong Aphrodite: Les Folies Tour.

Minogue trình diễn "Slow" vào ngày 6 tháng 11 năm 2003 tại Lễ trao giải Âm nhạc châu Âu của MTV.[46][47] Vào ngày 19 tháng 11 năm 2003, cô trình bày bài hát tại chương trình Victoria's Secret Fashion Show lần thứ 9.[48]

Sau khi phát hành, "Slow" xuất hiện trong hầu hết các chuyến lưu diễn của Minogue, ngoại trừ Anti Tour. Vào năm 2003, cô trình diễn bài hát trong Money Can't Buy, một đêm nhạc cố định quảng bá cho Body Language tổ chức tại nhà hát giải trí Hammersmith Apollo, Luân Đôn.[12] Vào năm 2005, cô trình diễn bài hát này tại Showgirl: The Greatest Hits Tour. Cô không thể hoàn thành chuyến lưu diễn vì được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú và phải hủy các đêm diễn tại Úc.[49] Sau khi trải qua các cuộc điều trị, cô trở lại chuyến lưu diễn dưới cái tên Showgirl: The Homecoming Tour vào năm 2007.[50] Vào năm 2008, cô trình bày bài hát này lần nữa tại KylieX2008. Chương trình quảng bá cho album phòng thu thứ 10 này chia làm 5 màn và "Slow" xuất hiện trong màn thứ 4 mang tên "Xposed".[51] Vào năm 2009, cô trình diễn bài hát trong chuyến lưu diễn đầu tiên của cô tại Bắc Mỹ For You, For Me.[52] Vào năm 2011, cô trình diễn phiên bản jazz của bài hát tại Aphrodite: Les Folies Tour, nơi cô quảng bá cho album phòng thu thứ 11 Aphrodite.[53] Vào năm 2012, Minogue trình bày "Slow" như một phần quảng bá cho The Abbey Road Sessions tại BBC Proms in the ParkHyde Park, Luân Đôn.[54] Vào năm 2014, Minogue trình diễn lại bài hát này tại Kiss Me Once Tour. Màn trình diễn sử dụng đèn laser và có xuất hiện lối nhảy break-dance "theo phong cách Matrix".[55]

Định dạng và danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  • CD đĩa đơn[1]
  1. "Slow" - 3:15
  2. "Soul on Fire" - 3:32
  • Đĩa đơn maxi[1]
  1. "Slow" - 3:15
  2. "Sweet Music" - 3:32
  3. "Slow" (Bản phối lại của Medicine 8) - 6:57
  4. "Slow" (Video) - 3:55
  • Đĩa đơn maxi 12-inch[1]
  1. "Slow" (Bản phối bổ sung) - 6:25
  2. "Slow" (Bản phối lại của Radio Slave) - 6:34
  3. "Slow" (Bản phối lại của Medicine 8) - 6:57

Xếp hạng và chứng nhận doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e “Kylie Minogue- Slow (Song)”. Australian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013.
  2. ^ Bartlam, Leigh (ngày 13 tháng 3 năm 2009). “Emilíana Torrini interview • "I still think Kylie's people were trying to call Jamelia and they just got the wrong number". Wears the Trousers. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2013.
  3. ^ a b c Cinquemani, Sal (ngày 14 tháng 11 năm 2003). “Kylie Minogue: Body Language”. Slant Magazine. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  4. ^ a b True, Chris. “Body Language- Kylie Minogue”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  5. ^ “Music Review: Kylie Minogue "Slow". The Bland Is Out There. Stardock Corporation. ngày 3 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  6. ^ a b c d e Ives, Brian; Bottomley, C. (ngày 24 tháng 2 năm 2004). “Kylie Minogue: Disco's Thin White Dame”. MTV. Viacom Media Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2013.
  7. ^ a b c Sendra, Tim. “The Abbey Road Sessions- Kylie Minogue”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  8. ^ a b Levine, Nick. “Kylie Minogue The Abbey Road Sessions Review”. BBC Music. BBC. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  9. ^ a b “Slow”. Kylie.com. Parlophone. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
  10. ^ Ankeny, Jason. “Brigitte Bardot - Biography”. AllMusic. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
  11. ^ “Brigitte Bardot Biography”. The Biography Channel. A+E Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
  12. ^ a b “Body Language Live”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  13. ^ Brown, Ethan (ngày 16 tháng 2 năm 2004). “Get Lost”. New York. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
  14. ^ Adrien, Begrand (ngày 17 tháng 3 năm 2004). “Kylie Minogue: Body Language”. PopMatters. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  15. ^ SPIN Staff (ngày 22 tháng 7 năm 2004). “Kylie Minogue, 'Body Language'. Spin. SpinMedia. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  16. ^ Seguy, Eric (ngày 3 tháng 3 năm 2004). “Kylie Minogue- Body Language- Review”. Stylus Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  17. ^ Zaleski, Annie (ngày 6 tháng 11 năm 2012). “Kylie Minogue: The Abbey Road Sessions”. The A.V. Club. The Onion. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  18. ^ Matusavage, Philip (ngày 29 tháng 10 năm 2012). “Kylie Minogue – The Abbey Road Sessions”. MusicOMH. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  19. ^ Rogers, Jude (ngày 30 tháng 11 năm 2012). “Kylie”. The Quietus. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  20. ^ Cinquemani, Sal (ngày 15 tháng 12 năm 2004). “Top 10 Albums, Singles, & Videos of 2004”. Slant Magazine. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2014.
  21. ^ Goldstein, Jeremy P. (ngày 26 tháng 4 năm 2004). “Coldplay, Dizzee Rascal, Goldfrapp Up For 2004 Ivor Novello Awards”. The Fader. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  22. ^ “Ivor Novellos 2004: The winners”. BBC News. ngày 27 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  23. ^ “Grammy 2005: Nominees”. VH1. Viacom Media Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  24. ^ “Kylie Minogue's Slow Tops Sexy Songs List”. Contactmusic.com. ngày 9 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  25. ^ Daw, Robbie (ngày 29 tháng 6 năm 2012). “Kylie Minogue Asked Whether Madonna Or Lady Gaga Is More Talented, Discusses Turning Down "Toxic". Idolator. SpinMedia. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.
  26. ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2003 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  27. ^ a b “Kylie Minogue- Slow (Song)” (bằng tiếng Đức). Austrian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  28. ^ a b c “Kylie Minogue- Awards”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  29. ^ “Kylie Minogue- Slow (Song)” (bằng tiếng Đan Mạch). Danish Charts. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  30. ^ “Kylie Minogue- Slow (Song)” (bằng tiếng Pháp). French Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  31. ^ “Single- Kylie Minogue Slow” (bằng tiếng Đức). Charts.de. Media Control. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  32. ^ “Kylie Minogue- Slow (Song)”. Italian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  33. ^ “Kylie Minogue- Slow (Song)”. New Zealand Charts. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  34. ^ a b c “Single Top 50”. Spanish Charts. Hung Medein. ngày 9 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2013.
  35. ^ “Kylie Minogue”. Official Charts. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  36. ^ “2003 Top 40 Official UK Singles Archive”. Official Charts. ngày 15 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.
  37. ^ Myers, Justin (ngày 15 tháng 11 năm 2013). “Official Charts Flashback 2003: Kylie Minogue – Slow”. Official Charts. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
  38. ^ “Slow”. Official Charts Company. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2015.
  39. ^ a b “Kylie Minogue- Chart history”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  40. ^ 28 tháng 2 năm 2004 “Dance/Club Play Songs” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Prometheus Global Media. ngày 28 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.[liên kết hỏng]
  41. ^ a b “Balenciaga's Video Vixens”. Into the Gloss. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  42. ^ a b “Slow”. IMVDb. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  43. ^ a b c “Kylie Minogue - Slow”. District MTV. Viacom Media Networks. ngày 1 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  44. ^ Claire (ngày 3 tháng 9 năm 2012). “Kylie Minogue 'Slow'. Diamonds and Wood. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2013.
  45. ^ Taylor, Ben (ngày 28 tháng 5 năm 2013). “Kylie Minogue's Best music video Moments”. Swide Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  46. ^ “2003 MTV Europe Music Awards, The (2003)”. Turner Classic Movies. Turner Broadcasting System. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  47. ^ Hodges, Jessica (ngày 17 tháng 11 năm 2003). “MTV Europe Music Awards 2003”. PopMatters. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  48. ^ “Victoria's Secret Fashion Show Music 2003”. VSHOLIC. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  49. ^ “Kylie diagnosed with breast cancer, cancels aussie leg of showgirl tour”. Fridae. ngày 18 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
  50. ^ “Kylie Minogue- Biography”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  51. ^ “Kylie X 2008- Kylie Minogue”. AllMusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
  52. ^ Caulfield, Keith (ngày 6 tháng 10 năm 2009). “Kylie Minogue / ngày 4 tháng 10 năm 2009 / Los Angeles (Hollywood Bowl)”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2013.
  53. ^ Power, Ed (ngày 24 tháng 3 năm 2011). “Kylie Minogue, The O2, Dublin, review”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2013.
  54. ^ “Kylie Minogue thrilled by 'magical' Proms concert”. BBC. ngày 10 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  55. ^ Caffery, Adrian (ngày 7 tháng 10 năm 2014). “Review and setlist: Kylie Minogue at Birmingham NIA”. Birmingham Mail. Trinity Mirror. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  56. ^ "Australian-charts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles.
  57. ^ "Austriancharts.at – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40.
  58. ^ "Ultratop.be – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50.
  59. ^ "Ultratop.be – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50.
  60. ^ "Danishcharts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten.
  61. ^ "Kylie Minogue: Slow" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  62. ^ "Lescharts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Pháp). Les classement single.
  63. ^ "Musicline.de – Minogue,Kylie Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH.
  64. ^ “Greek Singles Chart”. IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2014.
  65. ^ "Chart Track: Week 45, 2003" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart.
  66. ^ "Italiancharts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download.
  67. ^ "Dutchcharts.nl – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100.
  68. ^ "Charts.nz – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles.
  69. ^ "Norwegiancharts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Anh). VG-lista.
  70. ^ "Swedishcharts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100.
  71. ^ "Swisscharts.com – Kylie Minogue – Slow" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart.
  72. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  73. ^ "Kylie Minogue Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  74. ^ "Kylie Minogue Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  75. ^ "Kylie Minogue Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  76. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Singles 2003”. ARIA. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.
  77. ^ “The Official UK Singles Chart 2003” (PDF). UKChartsPlus. Official Charts. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.
  78. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2003 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Pokémon Sword/Shield – Golden Oldies, những bản nhạc của quá khứ
Pokémon Sword/Shield – Golden Oldies, những bản nhạc của quá khứ
Game chính quy tiếp theo của thương hiệu Pokémon nổi tiếng, và là game đầu tiên giới thiệu Thế Hệ Pokémon Thứ Tám
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Sau Wukong, series Black Myth sẽ khai thác tiếp Thiện Nữ U Hồn, Phong Thần Bảng, Khu Ma Đế Chân Nhân, Sơn Hải Kinh, Liêu Trai Chí Dị…
Vegapunk và quan điểm về tôn giáo của Albert Einstein
Vegapunk và quan điểm về tôn giáo của Albert Einstein
Tương lai đa dạng của loài người chính là năng lực. Căn cứ theo điều đó, thứ "Trái với tự nhiên" mới bị "Biển cả", mẹ của tự nhiên ghét bỏ
Blue Period - Bộ Anime truyền động lực và cảm hứng
Blue Period - Bộ Anime truyền động lực và cảm hứng
Bộ phim kể về Yutaro - nhân vật chính, một cậu học sinh cấp 3 "học giỏi, chơi giỏi" nhưng tất cả những điều đó chỉ khiến cậu ta càng thêm trống rỗng và cảm thấy cuộc sống thật nhàm chán và vô vị