Bài viết tiểu sử này được viết như một sơ yếu lý lịch. |
Tạ Đình Đề | |
---|---|
Chức vụ | |
Đội trưởng Đội Biệt động Liên khu 3 | |
Nhiệm kỳ | 1944 – |
Phó ban Tình báo Liên khu 2 trực thuộc Bộ Tư lệnh Liên khu 2 | |
Nhiệm kỳ | 1945 – |
Chủ nhiệm Tổng kho Biên giới Lạng Sơn | |
Trưởng đoạn Đoạn Đầu máy Hà Nội | |
Trưởng ban Ban Thể dục - Thể thao, kiêm Giám đốc Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt trực thuộc Tổng cục Đường sắt. | |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 8 tháng 8 năm 1917 [[Hà Nội], Liên Bang Đông Dương |
Mất | 17 tháng 1, 1998 Hà Nội | (80 tuổi)
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Đặng Thị Thọ |
Alma mater | Trường Quân sự Hoàng Phố Trường Quân sự Quế Lâm (Trung Quốc) |
Tạ Đình Đề (còn có tên là Lâm Giang, sinh 8 tháng 8 năm 1917 tại Hà Tây – mất 17 tháng 1 năm 1998 tại Hà Nội) là nhà cách mạng Việt Nam. Ông quê thôn Đại Định, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Đông nay thuộc thành phố Hà Nội.
Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can.
Năm 1933, lúc 16 tuổi, làm công nhân Sở Hỏa xa Vân Nam tại ga Côn Minh (Trung Quốc).
Năm 1935, tham gia Hội Ái hữu Cứu quốc sau đổi thành Việt Nam Giải phóng Cứu quốc do Mặt trận Việt Minh tổ chức.
Năm 1941, được Việt Minh cử đi học ở Liễu Châu tại Phân hiệu Chuyên ngành của Trường Quân sự Hoàng Phố. Ở Phân hiệu Liễu Châu, ông được đào tạo trở thành gián điệp và tốt nghiệp với tấm bằng xuất sắc.
Tham gia các hoạt động vũ trang và được Việt Minh phân công hoạt động tình báo cùng phái bộ Mỹ trong phe Đồng minh chống phát xít Nhật.
Được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 6 năm 1946, chính thức tháng 9 năm 1946.
Năm 1944 là Đội trưởng Đội Biệt động Liên khu 3.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, tham gia tổ chức giành chính quyền ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Sau khi giành được chính quyền, ông làm Ủy viên Công chính Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Thanh Oai.[1]
Cuối năm 1945, là Phó ban Tình báo Liên khu 2 trực thuộc Bộ Tư lệnh Liên khu 2.
Năm 1950 đến năm 1953, được cử đi học tại Phân Khoa 2 Trường Quân sự Quế Lâm (Trung Quốc) khóa 6 và khóa 7.
Từ tháng 10 năm 1954, Công tác tại Tổng cục Đường sắt lần lượt giữ các chức vụ: Chủ nhiệm Tổng kho Biên giới Lạng Sơn; Trưởng đoạn Đoạn Đầu máy Hà Nội; Trưởng ban Ban Thể dục - Thể thao, kiêm Giám đốc Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt trực thuộc Tổng cục Đường sắt.
Tháng 2 năm 1991, ông nghỉ hưu với mức lương Cán sự 3.[2]
Gia đình nghèo, nên 16 tuổi Tạ Đình Đề đã lang bạt sang làm Công nhân Sở Hỏa xa Vân Nam tại Ga Côn Minh, Trung Quốc. Trong thời gian đó, Ông tham gia Hội Ái hữu Cứu quốc sau đổi thành Việt Nam Giải phóng Cứu quốc do Mặt trận Việt Minh tổ chức.
Ông được đào tạo thành gián điệp và tốt nghiệp tại Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) với tấm bằng xuất sắc. Ông tham gia các hoạt động vũ trang và được Việt Minh phân công hoạt động tình báo cùng Phái bộ Mỹ trong Phe Đồng minh chống phát xít Nhật.
Sau Giải phóng Thủ đô, rời quân ngũ ông về công tác tại Tổng cục Đường sắt Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu vào tháng 2 năm 1991.
Ông là người trực tiếp lãnh đạo và xây dựng phong trào Thể dục Thể thao và Văn hóa Văn nghệ ngành Đường sắt Việt Nam. Đội Bóng đá Tổng cục Đường sắt nổi danh một thời cũng là do công sức đóng góp lớn của ông. Đội Văn công Đường sắt cũng nổi danh một thời với những văn nghệ sĩ tên tuổi như Lưu Quang Vũ, Phan Lạc Hoa, Trọng Nghĩa...
Ông đã xây dựng và góp phần đưa Xưởng Dụng cụ Cao su Tổng cục Đường sắt trở thành một Doanh nghiệp lớn có nhiều sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài ngay từ khi còn chiến tranh và thời kỳ bao cấp.
Ngày 27 tháng 11 năm 1974, Tạ Đình Đề bị bắt lần thứ nhất. Bị giam cứu hai năm để điều tra.
Từ ngày 7 tháng 6 đến 12 tháng 6 năm 1976, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử Tạ Đình Đề với tội danh tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa. Qua 6 ngày xét xử, Tòa tuyên "Tha bổng" Tạ Đình Đề - Luật pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó không có từ "Tha bổng".[3]
Tháng 8 năm 1985, Tạ Đình Đề lại bị bắt lần thứ hai.
Ngày 3 tháng 9 năm 1987, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội mở phiên tòa xét xử Tạ Đình Đề với 34 tội danh. Những ngày này, nhiều cơn "Địa chấn" dữ dội ở khu vực trước Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội - Đó là những đám đông người từ các địa phương Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định kéo lên, người từ các Công xưởng, phố xá ùn ùn kéo tới, đứng tràn cả ra đường Lý Thường Kiệt. Kết quả Tòa không luận được tội trạng và tuyên là Tạ Đình Đề không phạm tội. Ông được trả tự do ngay tại Tòa.[3]
Năm 1971, Tạo dựng cơ nghiệp mới cho Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt trên bãi trống Láng Hạ. Đường Láng Hạ ngày nay lúc đầu do Ông chỉ đạo làm một lối đi từ Đê La Thành xuống Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt. Trên mảnh đất này nhiều công nhân Đường sắt đã được chia đất làm nhà ở, nhiều căn hộ, biệt thự nay rất khang trang có giá trị rất lớn.
Tại Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt trước những năm 1975, ông đã có nhiều quyết định táo bạo: áp dụng hình thức khoán sản phẩm, khoán công việc đến từng người, từng tổ và trả lương theo sản phẩm, thực hiện thưởng lương tháng 13 để công nhân có tiền ăn Tết. Công nhân được đưa đón bằng xe ô tô và ăn giữa ca không mất tiền...[4].
Vợt Bóng bàn duy nhất sản xuất ở Việt Nam sản xuất tại Xưởng Dụng cụ Cao su Đường sắt của ông Tạ Đình Đề xuất khẩu đi 9 nước Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Âu.
Phần có văn phong hay cách dùng từ không phù hợp với văn phong bách khoa. |
Phần này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. |
Cuộc đời của ông bắt đầu bằng những câu chuyện huyền thoại và kết thúc cũng bằng những câu chuyện huyền thoại. Ông nổi danh với những hoạt động cách mạng được xem như huyền thoại. Sự ngang tàng, trượng nghĩa của mình mà ông có rất nhiều bạn bè. Nhưng rồi sau đó, chính điều đó làm hại ông. Cuộc đời ông cũng là một chuỗi ngày dài bị oan khuất...
Xung quanh Tạ Đình Đề có rất nhiều giai thoại, huyền thoại, ai hỏi thì ông bảo: "Ối giời ơi, chúng nó bịa ấy mà", rồi ông cười ngặt nghẽo: "Làm gì có chuyện đó. Chuyện về tớ cũng như chuyện về Bút Tre".[5]
Cha mẹ ông là Tạ Đình Ky và Lê Thị Duyên (còn gọi là bà Phó Ỳ). Ông có sáu anh em ruột. Người anh Tạ Đình Thái là liệt sĩ chống Pháp từ năm 1950, người chị Tạ Thị Ào là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Mẹ và các chị đều ủng hộ cán bộ cách mạng hoạt động từ thời kỳ tiền khởi nghĩa.[6]
Phu nhân của ông là Đặng Thị Thọ. Bà là con nhà tư sản Nghĩa Tường Đặng Thị Huyền, giàu có tiếng ở số 8 Hàng Ngang, Hà Nội. Bà mất năm 2003 tại Hà Nội.
Nhà thơ Bút Tre:
|tên bài=
và |title=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày truy cập=
và |access-date=
(trợ giúp)
|tên bài=
và |title=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày truy cập=
và |access-date=
(trợ giúp)
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “kt3” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
<ref>
có tên “kt4” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.