Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và các đơn vị Liên Xô tại Đức phải rút lui. Tập đoàn quân được chuyển đến Smolensk, giải tán vào năm 1999. Đơn vị được cải tổ vào năm 2014 như một phần trong kế hoạch mở rộng quân sự của Nga. Tập đoàn quân xe tăng số 1 cũng nhiều lần chuyển từ quân khu này sang quân khu khác, hiện tại thuộc Quân khu Moskva.
Tập đoàn quân xe tăng 1 được thành lập lần thứ hai vào ngày 30 tháng 1 năm 1943 (Sắc lệnh số 46021) trên cơ sở Tập đoàn quân 29, dưới sự chỉ huy của tư lệnh binh chủng thiết giáp nổi tiếng, Trung tướng Lục quân Mikhail Katukov, được đích thân Stalin bổ nhiệm. Tập đoàn quân được điều động đến Phương diện quân Tây Bắc. Quân đoàn cơ giới 3 (sau này trở thành Quân đoàn cơ giới cận vệ 8) và Quân đoàn xe tăng 6 (sau này trở thành Quân đoàn xe tăng cận vệ 11) cùng thành lập và phục vụ trong biên chế Tập đoàn quân trong suốt cuộc chiến.[1] Đơn vị nhanh chóng được chuyển đến Phương diện quân Voronezh để bảo vệ cánh phía nam của Kursk. Đơn vị đã được trao một Danh hiệu cận vệ và trở thành Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 vào tháng 4 năm 1944, và Katukov được thăng cấp Thượng tướng.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1945, Biên chế của Tập đoàn quân gồm:[2]
Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 (Thiếu tướng Ivan Dremov) (3 tháng 1 năm 1944 - 9 tháng 5 năm 1945)
* Trung đoàn súng cối cận vệ (hoặc Tiểu đoàn) (tiếng Nga: гвардейский минометный полк (дивизион)) là tên gọi công khai được sử dụng cho các đơn vị phóng pháo phản lực Katyusha. Đơn vị tham gia vào Trận Kursk, Chiến dịch Proskurov-Chernovtsy, Chiến dịch Lvov-Sandomierz, Chiến dịch Vistula-Oder và Trận Berlin. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 đã được trao tặng Huân chương Cờ đỏ sau chiến tranh, và trở thành một phần của lực lượng chiếm đóng của Liên Xô tại Đức, được gọi là Nhóm lực lượng Liên Xô tại Đức, có trụ sở chính tại Dresden. Năm 1968, Đơn vị cùng với Sư đoàn xe tăng cận vệ 11 và Sư đoàn súng trường cận vệ 20 tham gia cuộc xâm lược của Liên Xô vào Tiệp Khắc, nhưng sau đó ngay lập tức quay trở lại các đơn vị đồn trú của mình.[3] Vào cuối những năm 1980, Tập đoàn quân bao gồm Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 20, Sư đoàn xe tăng 9 và Sư đoàn xe tăng cận vệ 11. Bộ chỉ huy được rút về Smolensk, trong Quân khu Mátxcơvavào đầu những năm 1990, và mất danh hiệu 'Xe tăng' vào năm 1995. Trong thời kỳ cuối cùng trong Quân đội Nga, nó bao gồm Sư đoàn xe tăng Cận vệ 4 'Kantemir' và Sư đoàn súng trường cơ giới số 144 (đã được rút khỏi Tallinn ở Estonia). Đơn vị được giải tán vào năm 1998.
Sau 15 năm, Tập đoàn quân được tái tổ chức vào tháng 11 năm 2014.[6]
Đơn vị được thành lập như là đội hình cơ động và dự bị của Quân khu phía Tây cùng với Tập đoàn quân Binh chủng hợp thành 6 (trụ sở tại Saint Petersburg) và Tập đoàn Binh chủng hợp thành 20 (trụ sở tại Voronezh). Đây được coi là đơn vị tinh nhuệ của Lục quân Nga. Tập đoàn quân đội mang truyền thống của đơn vị đầu tiên mang Danh hiệu 'Cận vệ'. Hơn nữa, Lực lượng còn có Sư đoàn Súng trường cơ giới 2 và Sư đoàn xe tăng cận vệ 4, được coi là các đơn vị tinh nhuệ trong chiến tranh. Các sư đoàn được trang trí tốt nhất của Quân đội Liên Xô, được đồn trú gần Moscow nhất. Do gần với thủ đô nên việc giám sát kỹ lưỡng hơn đã được áp dụng đối với lực lượng của những đơn vị này. Hơn nữa, các đơn vị này nhận được trang thiết bị mới nhất và do đó được gọi là các sư đoàn 'hộ gia đình' của Quân đội Liên Xô. Lòng trung thành của họ đối với chính phủ đã được thể hiện qua việc họ tham gia vào Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991. Các sư đoàn vẫn giữ được trạng thái tinh nhuệ trong Quân đội Nga.
^Military personnel of the Soviet Armed Forces, assigned to service in a guards units or formations, added to the particular rank designation the wording Guard …, e.g. Guard Lieutenant General. This tradition is continued in the Russian Federation.
Bonn, K.E. 'Slaughterhouse – The Handbook of the Eastern Front', Aberjona Press, 2005
Duncan, Andrew 'Russian Forces in Decline – Part 3', Jane's Intelligence Review, November 1996.
V.I. Feskov, Golikov V.I., K.A. Kalashnikov, and S.A. Slugin, The Armed Forces of the USSR after World War II, from the Red Army to the Soviet (Part 1: Land Forces). (В.И. Слугин С.А. Вооруженные силы СССР после Второй Мировой войны: от Красной Армии к Советской (часть 1: Сухопутные войска)) Tomsk, 2013.
Glantz, David M. 'Companion to Colossus Reborn' University Press of Kansas, 2005.
Cụm từ Pressing đã trở nên quá phổ biến trong thế giới bóng đá, đến mức nó còn lan sang các lĩnh vực khác và trở thành một cụm từ lóng được giới trẻ sử dụng để nói về việc gây áp lực