Các chú thích trong bài hoặc đoạn này phải hoàn chỉnh hơn để có thể được kiểm chứng. |
T-64 | |
---|---|
Loại | xe tăng chủ lực MBT |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1966–nay |
Sử dụng bởi | Liên Xô Belarus Nga Ukraina Uzbekistan |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Phòng thiết kế Morozov |
Năm thiết kế | 1951–62 |
Nhà sản xuất | Nhà máy Malyshev |
Giai đoạn sản xuất | 1963–87 |
Số lượng chế tạo | gần 13,000 |
Thông số (T-64A[1]) | |
Khối lượng | 38 tấn/42,4 tấn |
Chiều dài | 9,225 m/9,9 mét |
Chiều rộng | 3,415 mét/3,6 mét |
Chiều cao | 2,172 mét/ |
Kíp chiến đấu | 3 người (trưởng xe, lái xe, pháo thủ) |
Phương tiện bọc thép | Giáp composite, cụ thể là gồm 1 lớp chất dẻo được gia cố bằng sợi thủy tinh 20–45 mm kẹp giữa hai lớp thép |
Vũ khí chính | Pháo nòng trơn 125 mm/L53.5 hay D-81T (40 viên đạn sabot) |
Vũ khí phụ | Đại liên đồng trục 7,62 ly PKMT (3000 viên đạn), **Đại liên phòng không 12,7 ly NSVT (500 viên đạn) |
Động cơ | diesel 5 xilanh đa nhiên liệu 5DTF 750 mã lực 700 hp |
Công suất/trọng lượng | 17,85/18,4 mã lực/tấn |
Hệ thống treo | Torsion bar |
Tầm hoạt động | 500 km |
Tốc độ | 60,5/75 km/giờ |
T-64 (tên mã dự án là Obyekt 434) là một xe tăng chiến đấu chủ lực của Liên Xô. Nó được phát triển và chế tạo từ đầu thập niên 1960 bởi phòng thiết kế xây dựng cơ khí Kharkiv mang tên A. A. Mozorov. T-64 bắt đầu được sản xuất hàng loạt từ năm 1964 và chính thức phục vụ trong quân đội Liên Xô từ năm 1969. Từ thập niên 1970, Liên Xô bắt đầu trang bị các xe tăng chiến đấu chủ lực T-64 và thế hệ nối tiếp trên cơ sở cải tiến T-64 là T-80 cho các sư đoàn xe tăng, đồng thời phân bổ các xe tăng T-54/55, T-62 sang sử dụng làm phương tiện hỗ trợ cho các sư đoàn bộ binh cơ giới.
Phiên bản nguyên thủy của T-64 sử dụng pháo nòng trơn 115 mm 2A21 (D-68) và đại liên đồng trục 7,62mm PKT. Nó là loại xe tăng áp dụng hàng loạt công nghệ tiên tiến nhất thế giới khi đó. Nó là xe tăng đầu tiên trên thế giới sử dụng hệ thống nạp đạn tự động[2] thay thế vai trò của người lính nạp đạn, vì vậy tổ lái giảm xuống còn có ba người. Nó cũng là xe tăng đầu tiên sử dụng hệ thống đo khoảng cách bằng laser để tăng độ chính xác khi bắn mục tiêu ở xa[3]. Vỏ giáp của T-64 cũng là loại đầu tiên sử dụng vật liệu tổng hợp thay vì chỉ có thép thông thường[3][4] làm tăng độ bền cho giáp trụ.
Phiên bản cải tiến là T-64A (1968) mang lớp giáp dày hơn và pháo chính với cỡ nòng 125 mm. Thiết kế mới làm xóa nhòa sự phân loại xe tăng hạng trung và hạng nặng vì T-64 lần này mang các thuộc tính của 2 dòng xe tăng đó: nó có vỏ giáp dày tương đương xe tăng hạng nặng và độ cơ động tốt của tăng hạng trung. Nói cách khác, T-64 là xe tăng chiến đấu chủ lực đầu tiên của Liên Xô và cũng là đầu tiên trên thế giới[5]. Phiên bản T-64B (1976) là loại xe tăng đầu tiên có khả năng bắn tên lửa chống tăng có điều khiển qua nòng pháo[6].
Trên cơ sở T-64, Liên Xô sau đó đã phát triển T-72 và T-80 cũng là các xe tăng chiến đấu chủ lực nhưng theo các phương châm khác nhau.
T-64 là một mẫu xe tăng hình thành tại Kharkiv, Ukraina và được xem như là thế hệ kế tiếp của các xe tăng như T-54/55 và T-62. Nó được thiết kế và phát triển bởi Cục thiết kế do Aleksander Aleksandrovich Morozov lãnh đạo.
Trong thiết kế của T-64 có 2 điểm đột phá mang tính cách mạng. Đầu tiên là vỏ giáp phức hợp, bao gồm hỗn hợp thép và vật liệu tổng hợp (composite), cho khả năng bảo vệ cao hơn nhiều so với vỏ thép thông thường. Điều này giúp cho giáp trước của T-64 có khả năng bảo vệ cao gấp đôi so với T-62 dù cả hai loại xe nặng ngang nhau). Thứ 2 là hệ thống nạp đạn tự động, giúp làm giảm số thành viên trong tổ lái, đồng thời giúp giảm kích thước tháp pháo (điều này giúp xe khó bị trúng đạn hơn cũng như làm giảm bớt khối lượng xe tăng). Nhiều chiến sĩ xe tăng thường đùa rằng với cải tiến này, những nhà thiết kế đã bắt kịp với bài hát "Ba người lính xe tăng" nổi tiếng trong quân đội Liên Xô thời đó[7].
Về sau T-64 còn được phát triển thành các mẫu T-64A (1967) với khẩu pháo chính 125 ly, và T-64B (1976) với khả năng bắn tên lửa ATGM qua nòng pháo. Nhưng bản nâng cấp nổi tiếng hơn cả là chiếc tăng T-80 (1976) chạy bằng động cơ turbine khí. Tháp pháo của T-64 cũng được dùng trong các bản nâng cấp của T-80 như T-80U, T-80UD và T-84.
Với mục đích ban đầu là tạo ra một mẫu xe tăng mạnh để đương đầu với các xe tăng và khí tài chống tăng phương Tây, đồng thời thay thế vai trò của các xe tăng hạng nặng dòng IS và T-10, không ngạc nhiên khi T-64 trở thành mẫu xe tăng tân tiến nhất không chỉ ở Liên Xô mà còn trên bình diện quốc tế vào thời điểm nó ra đời. Nó hoàn toàn vượt trội các loại xe tăng phương Tây thời kỳ đó như M48 Patton của Mỹ, Centurion của Anh, hoặc Leopard 1 của Đức. Nhưng điều này cũng khiến cho giá thành và chi phí sản xuất của nó khá cao (T-64 đắt gấp rưỡi so với T-72), vì vậy T-64 chỉ được sản xuất hạn chế và không được xuất khẩu, cụ thể nó hầu như chỉ được trang bị cho các đơn vị Xô Viết tinh nhuệ và đóng ở các khu vực hiểm yếu của Liên Xô và khối Warszawa, ví dụ như Đông Đức và Hungary.
Sau khi Liên Xô tan rã, các xe tăng T-64 còn lại vẫn được tiếp tục sử dụng tại các quốc gia thuộc SNG, ví dụ Ukraina hiện giữ gần 2.000 chiếc và Lục quân Nga hiện có 4000 chiếc.
Quá trình thiết kế mẫu xe tăng mới bắt đầu từ năm 1951. Phòng thiết kế KB-60M đã được thành lập tại Cục xây dựng Kharkov trực thuộc Nhà máy xây dựng Kharkov số 75 Malyshev, trong số đó có nhiều kỹ sư quốc phòng điều từ vùng Nizhnyl Tagil. A. A. Morozov được chỉ định làm trưởng phòng. Trong suốt 1953-1955, các quan chức cấp cao đã hai lần kiểm tra dự án phát triển xe tăng và trong cả hai lần dự án đều nhận được những sự hưởng ứng tích cực từ chính phủ thông qua Quyết định số 880-524 tháng 7 năm 1955 của Hội đồng Bộ trưởng của Liên Xô và những nhận xét của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và xây dựng vào ngày 13 tháng 5 năm 1955.
Năm 1956, sau một thời gian nâng cấp sửa đổi một số chi tiết, thông số kỹ thuật để phù hợp với các yêu cầu do chính phủ đề ra vào ngày 8 tháng 6 năm 1955, Phòng thiết kế KB-60M đã bắt tay vào chế tạo thử nghiệm phiên bản xe tăng thử nghiệm đầu tiên và gọi là Obyekt 430.
Obyekt 430 được đánh giá vượt trội hơn dòng T-54/55 về các mặt giáp bảo vệ, hỏa lực, khả năng cơ động nhưng vẫn tương tự về trọng lượng và kích thước. Những tính năng mới của Obyekt 430 được xem như là một cuộc cách mạng trong việc thiết kế và chế tạo xe tăng của Liên Xô. Những tính năng mới của xe bao gồm:
- Lần đầu tiên động cơ 5TD xi lanh đối xứng (opposed cylinder) chạy bằng dầu diesel xuất hiện trong xe tăng và nó được đánh giá là cực kỳ gọn nhẹ. Động cơ được thiết kế tại Cục Thiết kế động cơ diesel Charomskiy. Thiết kế mới với hệ thống truyền động gồm 2 bánh răng 2 bên động cơ khiến cho thể tích của nó giảm đi chỉ còn một nửa so với động cơ của T-54/55.
- Đơn giản hóa hệ thống truyền động bằng cách lắp đặt các bánh chịu lực mới có đường kính nhỏ rất nhẹ bằng thép với bộ giảm sóc đặt bên trong các vác đĩa làm bằng hợp kim nhôm.
- Nhờ lắp giáp tấm mà khả năng bảo vệ của xe ở các vị trí thân xe và tháp pháo được tăng cường.
- Thiết bị nhìn đêm được giới thiệu.
- Xe được trang bị một bộ lội sâu.
- Xe sử dụng pháo nòng xoắn D-54T 100mm, tương tự như pháo D-10T trên T-54/T-55.
Ba phiên bản thử nghiệm đầu tiên của Obyekt 430 đã được sản xuất tại Nhà máy Malyshev (theo quyết định số 20 của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ngày 25 tháng 2 năm 1957 Nhà máy số 75 đã được đổi tên thành Nhà máy Malyshev) vào năm 1957 và được trình làng ở Kubinka vào năm 1958. Năm 1959, phiên bản đầu tiên của Obiekt 430 được đưa vào thử nghiệm, các quan chức chính phủ vô cùng ấn tượng với thiết kế của xe, đặc biệt là ở thiết kế hệ thống truyền động 5 số của xe tăng.
Mặc dù thiết kế của xe tăng là hoàn toàn mới và các thông số kỹ thuật đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chính phủ, nhưng việc tiếp nhận vào trang bị Quân đội Liên Xô của dòng xe tăng này không thể thực hiện được. Điều này có nhiều nguyên như sự lo lắng của Quân đội Liên Xô về pháo D-54T 100mm của xe bởi loại pháo này tỏ ra không mạnh bằng pháo D-10T của T54/55 hay những loại pháo mới của NATO như loại L7 105mm của Anh, xuất hiện sự hoạt động không tin cậy của động cơ 5TD trong việc vận hành và không ít những nhược điểm thiết kế trong việc đơn giản hóa hệ thống truyền động cũng đã phát sinh sau một thời gian sử dụng. Chính bản thân Aleksandr A. Morozov cũng nhận thấy rằng sẽ không thiết thực nếu đưa Obyekt 430 vào sản xuất hàng loạt
Đến năm 1960, dự án phát triển Obyekt 430 bị ngừng lại. Phòng thiết kế KB-60M quyết định tiếp tục nghiên cứu, kết quả là cho ra đời Obyekt 430U với pháo 120 mm và giáp 160 mm, mục đích xây dựng một xe tăng kiểu mới đủ sức mạnh đảm đượng trọng trách của xe tăng hạng nặng T-10 trước đây. Và tiếp đó là Obyekt 432.
Sau thất bại của Obyekt 430, Phòng thiết kế KB-60M đã quyết định tiếp tục tiến hành dự án phát triển xe tăng mới. A.A.Morozov đã hoàn thành và giới thiệu dự tháo thiết kế của xe tăng Obyekt 432 vào năm 1960. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã xem xét, phê duyệt dự thảo thiết kế này thông qua Quyết định số 141-58 được ban hành ngày 17 tháng 2 năm 1961. Công việc lắp ráp, chế tạo được tiến hành tại Nhà máy Malyshev.
Năm 1961, Phòng thiết kế KB-60M bắt đầu đặt tiến hành lắp ráp phiên bản thử nghiệm đầu tiên. Đầu năm 1962, khung gầm của Obyekt 432 đã được hoàn thành. Chiếc xe tăng thử nghiệm đầu tiên được giới thiệu vào tháng 9 năm 1962, chiếc thứ hai được ra mắt ngày 10 tháng 10 năm 1962. Vào ngày 22 tháng 10 năm 1962, một trong số đó đã được đưa đến Kubinka để giới thiệu các lãnh đạo cao cấp của Liên Xô.
Từ năm 1962 đến năm 1963, Phòng thiết kế KB-60M đã tiếp tục lắp ráp thêm 6 phiên bản thử nghiệm của Obyekt 432. Năm 1964, KB-60M đã cho xây dựng một dây chuyền sản xuất nhỏ và đã xuất xưởng 90 xe tăng Obyekt 432. Năm 1965, dây chuyền này tiếp tục hoàn thành thêm 160 chiếc nữa. Từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 5 năm 1964, xe được đưa đi thử nghiệm cấp nhà nước.
Ngày 30/12/1966, theo Quyết định của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, Obyekt 432 chính thức có mặt trong trang bị của Quân đội Liên Xô với tên gọi T-64.
Tính năng kỹ thuật của Obyekt 432:
- Khả năng cơ động của xe được nâng lên nhờ được lắp đặt động cơ diesel 5TDF 700 mã lực thay cho loại 580 mã lực của Obyekt 430.
- Để tăng cường hỏa lực của xe, xe được trang bị một pháo nòng trơn U-5TC D-68 (2A21) 115mm với liều phóng rời. Và lần đầu tiên, hệ thống nạp đạn tự động điện thủy lực được áp dụng cho xe tăng. Đây là một quyết định táo bạo vì cho đến thời điểm đó, hệ thống này bị coi là chưa hoàn thiện. Nhưng nhờ đó mà kíp lái giảm từ 4 xuống 3 người, nhờ vậy xe tăng có chiều cao thấp hơn, khối lượng giảm từ 36 tấn xuống 30,5 tấn, chiều cao giảm 76mm. Tốc độ nạp 6,5-15 giây/viên, tùy vị trí ổ quay nhưng độ tin cậy thấp, dễ có trục trặc nếu bảo dưỡng kém.
- Khả năng bảo vệ của xe được tăng cường hơn so với Obyekt 430. Ban đầu 432 dùng giáp thép đúc. Nhưng rồi, pháo 105 mm L7 của Anh ra đời và nhanh chóng được trang bị cho các xe tăng phương Tây như Centurion của Anh và M60 Patton của Mỹ, nhóm thiết kế quyết định trang bị cho 432 giáp ba lớp kết hợp thép-composite-thép (mà phương Tây gọi là mẫu K). Nó gồm 1 lớp plastic được cố kết bằng sợi thủy tinh kẹp giữa 2 lớp thép có siêu bền. Điều này khiến cho trọng lượng toàn bộ xe tăng lên 34 tấn (thay vì 30,5 tấn).
- Xe cũng có được trang bị hệ thống chống phóng xạ, hệ thống bảo vệ NBC (bảo vệ trước vũ khí hạt nhân, sinh học, hoá học)
Ngay khi T-64 đang được chế tạo, một mẫu "Obyekt 434" lại được âm thầm thiết kế với mục đích tạo ra một loại xe tăng có hỏa lực nổi trội hơn các đồng nghiệp T khác. Vì vậy mẫu tăng mới này được lắp đặt khẩu pháo 125 mm D-81T sản xuất tại Perm, một mẫu cải tiến của khẩu 115 mm cũ trên T-62. Tuy nhiên việc mang những viên đạn 125 mm to hơn đồng nghĩa với việc T-64 sẽ mang ít đạn hơn: 25 viên. Mà những thông số chặt chẽ về kích thước của T-64 khiến các nhà thiết kế khó có thể mở rộng khoang chứa đạn được. Cuối cùng họ tìm ra giải pháp: dùng một thiết bị nạp đạn tự động thay cho hệ thống nạp đạn cũ bằng tay, nhờ đó giảm số binh sĩ trong xe tăng từ 4 còn 3 người; đồng thời đây còn là mẫu tăng đầu tiên áp dụng hệ thống nạp tự động (Perrett 1987:42). Từ đó lại dẫn tới những cải tiến về thiết bị nạp đạn: kiểu 6ETs10 với 28 viên đạn và tốc độ nạp 8 viên 1 phút. Ngoài ra còn có hệ thống giữ ổn định 2E23 và thiết bị ngắm TPD-2-1 (1G15-1). Về việc chiến đấu ban đêm, T-64 mới được lắp đặt kính tiềm vọng TPN-1-43A với thiết bị hồng ngoại L2G, được đặt bên trái pháo chính. Về vỏ giáp thì hợp kim duras trong giáp được thay thế bởi các sợi thủy tinh và có lắp thêm các tấm đàn hồi tạo thành giáp diềm chắn bảo vệ phía trước, hai bên hông xe và phía trước bánh xích cũng bằng hợp kim duras. Một số ngăn chứa đồ ngoài xe cũng được lắp đặt thêm, cụ thể là một ngăn ở bên phải và 3 hộp ở bên trái tháp pháo. Thiết bị xả khói mù nằm ở phía sau tháp. Hệ thống bảo vệ NBC cũng được lắp đặt và các lỗ thông gió được mở rộng ra.
Những mẫu thử nghiệm của 434 ra đời năm 1966 và 1967 khi mà T-64 nguyên mẫu đã được sản xuất chừng vài trăm chiếc. Cuối cùng thì nó cũng hoạt động dưới cái tên T-64A. Còn thiết kế trưởng Morozov được nhận Giải thưởng Lenin.
Đã mang tiếng là xe tăng "tinh nhuệ" nên T-64 phải luôn được nâng cấp. Chỉ sau 3 năm phục vụ, T-64A đã có mẫu cải tiến:
Cùng năm mẫu T-64AK dành cho chỉ huy cũng xuất hiện, trang bị một radio R-130M có ăngten loại xếp (telescoped – giống loại ăngten cắm trên TV, có thể thay đổi độ dài) dài tới 10m. Ăngten chỉ hoạt động trong trạng thái cố định vì được giữ bởi các dây chằng. Ngoài ra còn có thiết bị ngắm PAB-2AM và thiết bị định hướng TNA-3. Một máy phát điện dùng nhiên liệu xăng sẽ cung cấp năng lượng cho tất cả chúng.
Đến năm 1976, hệ thống vũ khí T-64A lại được cải tiến với khẩu pháo mới D-81TM (2A46-1), được giữ ổn định bằng 2E28M2 và tiếp đạn bởi 6ETs10M. Thiết bị nhìn đêm cũ được thay bằng TNPA-65. Động cơ mới có thể dùng nhiều loại nhiên liệu khác nhau, trong đó có dầu diesel, xăng hay kerosene. Đến năm 1980, Liên Xô ngừng sản xuất các xe tăng mẫu này.
Tuy nhiên sau năm 1981 các mẫu tăng T-64A vẫn tiếp tục được nâng cấp và hiện đại hóa: thay các giáp yếm bằng các tấm giáp váy cao su nhằm tăng khả năng sống sót cho xe tăng; trang bị thêm 6 ống phóng lựu 81 ly 902A trên tháp pháo, hai bên pháo chính. Một số T-64A sau năm 1985 còn được trang bị thêm giáp phản ứng nổ (giống T-64BV), thiết bị đo khoảng cách TPD-K1 thay cho TPD-2-49 (1981). Nói chung là hầu hết các mẫu T-64A đều được nâng cấp thành T-64R trong khoảng 1977-81; chủ yếu là cải tiến về các khoang chứa đồ ngoài xe và hệ thống ống phun khói mù.
Tuy nhiên mẫu T-64 hiện tại vẫn có trục trặc: cơ cấu của động cơ 5TDF tại nơi sản xuất nó khiến cho nó không được cung ứng đầy đủ cho các nhà máy sản xuất xe tăng chính của Liên Xô: Malyshev tại Kharkov, Kirov tại Leningrad và Uralvagonzavod tại Nizhny Tagil.
Ngay từ năm 1961, bên cạnh Obyekt 432, một mẫu tăng khác mang động cơ 12 V-xilanh V-45 mang tên Obyekt 436 cũng được nhóm của Morozov nghiên cứu. Ba mẫu thử nghiệm đã được kiểm tra ở nhà máy Chelyabinsk vào năm 1966. Sau đó mệnh lệnh được ban ra là phải phát triển một mẫu tăng mới từ Obyekt 434 và sử dụng động cơ V-45, lấy tên là Obyekt 439. Bốn chiếc 439 đã được sản xuất vào năm 1969, được đánh giá là có độ cơ động ngang với mẫu T-64 đang được sản xuất hàng loạt. Mặc dù 439 không được đưa vào chế tạo đại trà nhưng nó là cái sườn cho việc phát triển T-72.
Vào đầu thập niên 1970, nhóm thiết kế T-64 lại tiếp tục suy nghĩ phương cách cải tiến các mẫu tăng của mình xa hơn nữa. Mẫu T-64A-2M với động cơ mạnh hơn và tháp pháo được cải tiến, trở thành tiền đề cho hai mẫu tăng dưới đây:
Sau đó, mệnh lệnh ban xuống yêu cầu bắt đầu việc sản xuất đại trà Obyekt 447 dưới cái tên T-64B. Đồng thời, Obyekt 437 (mẫu mà 447 lấy làm nguyên mẫu với 95% chi tiết giống như 447 nhưng không có hệ thống điều khiển tên lửa chống tăng để tiết kiệm chi phí) cũng được sản xuất với số lượng gấp đôi dưới cái tên T-64B1. Vào ngày 9 tháng 3 năm 1976, T-64B và T-64B1 sau khi được đánh giá tốt về chất lượng đã chính thức phục vụ trong quân đội Liên Xô, với trang bị mới là khẩu pháo D-81Tm (2A46-2) cùng thiết bị ổn định 2E26M, thiết bị nạp 6ETs40 và hệ thống điều khiển bắn 1A33, bao gồm:
T-64B có khả năng lội nước sâu tới 1,8 mét mà không cần các thiết bị hỗ trợ. Nó cũng có thể bắn tên lửa ATGM 9M112 Kobra (NATO gọi là AT-8 Songster) qua nòng pháo để tiêu diệt mục tiêu từ cự ly xa 4.000 (trong khi cự ly hiệu quả của đạn pháo tăng thông thường chỉ khoảng 3.000 mét), cho phép T-64 tiêu diệt xe tăng địch trước khi chúng có thể bắn trả. 9M112 Kobra cũng có thể tiêu diệt được trực thăng địch (nếu nó đang bay chậm và ở độ cao thấp).
Giá mỗi quả tên lửa 9K112 Kobra vào năm 1976 là khoảng 5.000 rúp, khá đắt so với đạn pháo thông thường (một động cơ diesel cho xe tăng thời đó có giá 9.000 rúp, một chiếc T-64A có giá 143.000 rúp), do vậy nó chỉ được ưu tiên trang bị cho những loại xe cao cấp như T-64B và T-80 (mỗi xe cũng thường chỉ trang bị 4 tên lửa)[8]
Dự trữ đạn dược của xe tăng là 28 viên đạn và 4-8 tên lửa. Hệ thống điều khiển tên lửa đặt phía trước xe tăng đã có nhiều thay đổi. Còn T-64B1 không có tên lửa mà chứa 37 viên đạn 125 mm cùng với băng đạn 2.000 viên dành cho đại liên đồng trục 7,62 ly, trong khi đó T-64B mang băng đạn 1250 viên.
Năm 1981 T-64B được nâng cấp với khẩu pháo 2A46M1, thiết bị ổn định 2E42 và 2 cụm ống phóng lựu đạn khói 902A "Tucha-1" đặt hai bên tháp pháo. Hai phiên bản chỉ huy của T-64B cũng ra lò: T-64BK và T-64B1K, trông rất giống T-64AK.
Vào tháng 10 năm 1979 động cơ 6TD được đưa vào sản xuất hàng loạt và được trang bị cho các xe tăng T-64B, B1, A, AK, thế là ra đời các mẫu tăng mới: T-64AM, T-64AKM, T-64BM và T-64BAM.
Năm 1987, Liên Xô ngừng sản xuất tất cả các mẫu tăng T-64. Tổng số lượng T-64 lúc này là gần 10.700 chiếc.
Sau khi Liên Xô tan rã, Ukraina vẫn tiếp tục công việc nâng cấp và hiện đại hóa các mẫu T-64 của mình, một phần là vì nơi sản xuất chủ yếu của T-64, Nhà máy Malyshev nằm trên đất Ukraina.
Ukraina có hai chương trình nâng cấp T-64 và đều kết thúc vào năm 1999:
Cả hai mẫu đều dùng giáp phản ứng nổ Kontakt-5 có thể chống được đạn động năng (đạn sabot) trong khi các mẫu T-64 trước chỉ có thể chống được đạn HEAT. Cả hai mẫu đều có thể trang bị động cơ 6TDF 1000 mã lực (735 kW).
Một mẫu nâng cấp khác là T-64E, nâng cấp từ T-64BV. Sử dụng động cơ diesel mới 5TDFE có công suất 850 mã lực và độ tin cậy được cải thiện. Ukraina tuyên bố giáp trước tháp pháo của T-64E mạnh tương đương 750mm thép cán. Trang bị giáp phản ứng nổ NOZH có khả năng bảo vệ trước đầu đạn nổ chống tăng liều đúp. Có thiết bị phòng thủ chủ động Varta (phiên bản cải tiến của Shtora-1), hệ thống ngắm bắn và điều khiển hỏa lực được cải tiến. Năm 2011 giá một chiếc T-64E là 1,12 triệu USD.[9]
Những thông tin về T-64 được Liên Xô giữ kín trong một thời gian dài, phương Tây thường nhầm lẫn T-64 với T-72. T-64 không bao giờ được xuất khẩu và chỉ được triển khai hạn chế trong các chiến dịch chống phiến quân Chechnya ly khai.
Năm 1967, chiếc T-64 đầu tiên được đưa vào trang bị của Sư đoàn xe tăng số 41 trực thuộc Quân khu Kiev.
Những chiếc T-64 thuộc Sư đoàn súng trường cơ giới số 59 ở Moldova được triển khai chiến đấu vào năm 1992, đây là lần triển khai chiến đấu đầu tiên của T-64.
T-64 hầu như chỉ được trang bị cho các đơn vị Xô Viết tinh nhuệ và đóng ở các khu vực hiểm yếu của Liên Xô và khối Warszawa, ví dụ như Đông Đức và Hungary.
Với những tính năng kỹ thuật vượt trội, T-64 nhanh chóng trở thành mẫu tăng tân tiến nhất thế giới trong suốt nửa cuối thập niên 60 và nửa đầu thập niên 70. Nó là một cơn ác mộng của lực lượng xe tăng NATO trong thời gian dài. Ngay trong thời điểm hiện nay, các bản T-64 cải tiến vẫn chưa có dấu hiệu "xuống sức", thậm chí có người còn cho rằng T-64 cải tiến đấu ngang ngửa với T-80 và T-84. Thật sự T-64 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình: kế tục các mẫu xe tăng hạng nặng nổi tiếng như IS-3 và T-10.
Có một điều thú vị là T-64 hay bị nhầm với T-72, một phiên bản nâng cấp của T-62 nhưng có sử dụng nhiều chi tiết của T-64. Thật sự, T-72 rất giống với T-64 cũng như bản nâng cấp của nó là T-80. Mặc dù vậy có một số đặc điểm khác biệt dễ nhận dạng 2 xe tăng này:
Tất nhiên là chất lượng 2 xe tăng này không thể nhầm được: T-64 hoàn toàn vượt trội về mọi mặt so với T-72 (trừ phiên bản T-72B sản xuất năm 1985), cụ thể như:
Vì vậy T-64 đắt hơn và phức tạp hơn: nó chỉ được sản xuất hạn chế và sử dụng bởi các lực lượng tinh nhuệ nhất của Liên Xô, đóng tại những nơi xung yếu trong khối Warsaw, như quân đoàn 14 tại quân khu Odessa, sư đoàn cận vệ số 41 tại quân khu Kiev. Các mẫu T-64A cũng hiện diện trong lực lượng tăng thiết giáp của Tập đoàn quân Liên Xô tại Đông Đức (GSFG) và Tập đoàn quân nam Hungary, về sau T-64B cũng được trang bị cho các lực lượng này. T-64 không xuất khẩu, ít sử dụng, và trong suốt một thời gian dài các thông tin của nó là bí mật. Còn T-72, do giá thành thấp, dễ sản xuất đại trà thì lại thay thế cho T-55 và T-62 trong việc hình thành "xương sống" của lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô và việc xuất khẩu ra nước ngoài (xem thêm bài T-72).
Bởi tháp pháo nhỏ và thấp nên góc hạ nòng súng khá nhỏ (5-6 độ) nên không thể đứng bắn khi ở các vị trí quá cao, làm giảm khả năng phòng thủ của xe tăng[10]. Phương Tây cho rằng đây là nhược điểm, bởi xe tăng sẽ không tận dụng được chiến thuật "Hull-Down" (nấp thân xe sau mô đất dốc, chỉ để hở nòng pháo) khi phòng thủ. Tuy nhiên, các nhà thiết kế Liên Xô không xem đây là một nhược điểm, bởi phương thức tác chiến chủ yếu của xe tăng không phải là phòng ngự mà là cơ động tấn công, tháp pháo nhỏ sẽ giúp giảm đáng kể xác suất trúng đạn khi tác chiến cơ động. Nhiệm vụ ẩn nấp phòng ngự là của lực lượng pháo chống tăng chứ không phải của xe tăng, tuy nhiên nếu bắt buộc phải bố trí phòng thủ (vốn ít khi diễn ra) thì T-64 vẫn hoàn toàn có thể dùng lưỡi ủi đất (gắn trước thân xe) để tự đào hố ẩn nấp kiểu "Hull-Down" chỉ trong mấy phút.
T-64 cũng mắc một số các khuyết điểm như:
Đồng thời hệ thống nạp đạn tự động của T-64 cũng bị chỉ trích khá nhiều:
Để khắc phục những nhược điểm nói trên, Liên Xô tiếp tục nghiên cứu, nâng cấp T-64 thành loại T-80.
T-64
T-64A/AK
T-64B/B1/BK/B1K
|date=
(trợ giúp)