Narcissus tazetta | |
---|---|
Hoa thủy tiên (N. tazetta subsp. chinensis) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Monocots |
Bộ (ordo) | Asparagales |
Họ (familia) | Amaryllidaceae |
Chi (genus) | Narcissus |
Loài (species) | N. tazetta |
Danh pháp hai phần | |
Narcissus tazetta L. |
Thủy tiên (danh pháp hai phần: Narcissus tazetta L.) là một loại thực vật thuộc Chi Thủy tiên, Họ Loa kèn đỏ (Amaryllidaceae). Loài cây này có thể dùng làm cảnh, trồng bằng cách đặt phần củ vào trong bình nước. Cây nở hoa nhỏ, có màu trắng và mùi thơm.
Củ của cây có chất alkaloid gây chóng mặt, buồn nôn, tiêu chảy, run rẩy toàn thân, hôn mê, có thể dẫn đến tử vong khi ăn phải.
Narcissus tazetta là một trong số những loài cao nhất trong Narcissus, và có thể cao đến 80 cm,[1] với lá mảnh phẳng dài đến 40 cm và rộng 15 mm. Cụm hoa có khoảng 8 hoa với cánh màu trắng và nhị hoa màu vàng.[2][3][4][5][6]
Có 6 phân loài được chấp nhận theo World Checklist of Selected Plant Families:[7]
Narcissus tazetta chứa hợp chất thơm chỉ được tìm thấy ở một vài loài như hoa hồng và Acnistus arborescens, có tên gọi là orcinol dimethyl ete, chất này hầu như mũi người không phát hiện được. Các thí nghiệm trên ong mật cho thấy chúng có thể nhận dạng được.[13]
Narcissus tazetta là một loài phân bố rộng rãi, chúng là loài bản địa của vùng Địa Trung Hải từ Bồ Đào Nha đến Thổ Nhĩ Kỳ. Nó cũng là loài được bản địa hóa khắp vùng Trung Đông, Trung Á, Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Nepal và Bhutan, cũng như Quần đảo Canary, Trung Quốc (Phúc Kiến, Chiết Giang), Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, Đảo Norfolk, New Zealand, Bermuda, Mexico và Hoa Kỳ (Oregon, California, Texas, Alabama, Arkansas, Florida, Louisiana, Mississippi, Bắc Carolina, Nam Carolina, Virginia, và Tây Virginia)[14] và Nam Mỹ.[15]
Narcissus tazetta được trồng thương mại để lấy tinh dầu, hầu hết ở miền nam Pháp. Một loài lai với Narcissus poeticus, cũng được trồng để lấy tinh dầu. Ứng dung trong y khoa gần đây là một protein có tên là lectin có tác dụng kháng vi rút cúm. Tác dụng này dựa trên cách sử dụng liều phụ thuộc. Tính chất kháng virus cho kết quả rằng nó có thể vô hiệu hóa RSV trong chu kỳ lây nhiễm và vì thế nó không thể lan rộng. Đặc tính kháng virus của nhóm lectin nhất định sẽ có tác dụng lớn hơn trong giai đoạn sớm của bệnh cảm cúm. Nó có rất ít khả năng gây độc và tiềm năng to lớn như một tác nhân kháng virus, vì vậy nó có tiềm năng để sử dụng trong nghiên cứu công nghệ sinh học trong tương lai.[16]
Next to the Hyacinths, Tulips, Ranunculuses, and Anemones, of which we have treated already, the Polyanthus Narcissus holds the first place and demands our chief attention