Tiếng Huy Châu | |
---|---|
徽州話/徽州话 | |
Sử dụng tại | Trung Quốc |
Khu vực | Huy Châu, nam An Huy, khu vực phụ cận ở Chiết Giang và Giang Tây |
Tổng số người nói | 4,6 triệu |
Phân loại | Hán-Tạng
|
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-3 | czh |
Glottolog | huiz1242 [1] |
Linguasphere | 79-AAA-da |
Tiếng Huy Châu | |||||||||||
Phồn thể | 徽州話 | ||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giản thể | 徽州话 | ||||||||||
Bính âm Hán ngữ | Huīzhōu Huà | ||||||||||
| |||||||||||
Tên tiếng Trung thay thế | |||||||||||
Phồn thể | 徽語 | ||||||||||
Giản thể | 徽语 | ||||||||||
Bính âm Hán ngữ | Huīyǔ | ||||||||||
|
Tiếng Huy Châu (giản thể: 徽州话; phồn thể: 徽州話; bính âm: Huīzhōu-huà) hoặc tiếng Huy (giản thể: 徽语; phồn thể: 徽語; bính âm: Huīyǔ), là một nhóm các ngôn ngữ Hán được nói ở khu vực Huy Châu, trong khoảng mười huyện miền núi miền nam An Huy, và một vài khu vực lân cận ở Chiết Giang và Giang Tây.
Mặc dù khu vực nói tiếng Huy nhỏ hơn so với các nhóm phương ngữ khác của tiếng Hán, nhưng nó có mức độ đa dạng nội tại rất cao. Gần như mọi huyện đều có phương ngữ riêng không thể thông hiểu với người nói từ huyện khác. Vì lý do này, người nói tiếng Huy thường nói song ngữ hoặc đa ngữ. Ước tính có khoảng 4,6 triệu người nói tiếng Huy Châu.
Tiếng Huy Châu ban đầu được phân loại là Quan thoại Hạ Dương Tử nhưng hiện tại nó tách riêng.[2] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc ủng hộ việc tách tiếng Huy Châu khỏi tiếng Quan Thoại Hạ Dương Tử năm 1987.[3] Việc phân loại của nó vẫn chưa được đồng thuận, một số nhà ngôn ngữ học như Matisoff xếp nó vào tiếng Ngô, những người khác như Bradley (2007) phân loại nó trong tiếng Cám, và những người khác nữa đặt nó thành một nhánh chính của nhóm tiếng Hán.
Trong triều đại nhà Minh và nhà Thanh, nhiều người nói tiếng Giang Hoài đã di cư đến khu vực nói tiếng Huy.[4]
Một số tác phẩm văn học được xuất bản tại Dương Châu, như cuốn tiểu thuyết Thanh Phong Sạp, được sáng tác bằng Quan thoại Giang Hoài. Người dân ở Dương Châu nói phương ngữ riêng, trái ngược với người di cư nói các phương ngữ khác như tiếng Huy Châu hoặc tiếng Ngô. Điều này dẫn đến sự hình thành bản sắc dựa trên phương ngữ. Thời xưa, một số lớn thương nhân từ Huy Châu sống ở Dương Châu, giúp giữ ổn định nền kinh tế nơi đây.[5] Vào hậu kỳ thời đế quốc, những thương nhân như vậy cũng giúp hoạt động nhạc, kịch tiếng Huy phát triển.[6]
Trịnh Trương Thượng Phương chia các ngôn ngữ Huy thành năm nhóm nhỏ, ghi lại trong Trung Quốc ngữ ngôn Địa đồ chí.[7][8] Các phương ngữ Huy Châu mỗi làng một khác.[9] Người dân ở các làng khác nhau thường không thể nói chuyện với nhau.
Formerly considered to be part of the Jianghuai dialect of Mandarin, but now considered by many to be a separate major variety of Chinese. Dialects are reported to differ greatly from each other. Different from the Huizhou dialect ofQuản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) (the University of Michigan)
For this reason, the Chinese Academy of Social Science suggested in 1987 that two new groups, the Jin and the Hui, be separated from the northwestern and the Jiang-Huai Mandarin subgroups. Distinctive Features: Mandarin dialects are(the University of California)
According to Hirata, however, Hui is composed of many layers: its dialects are spoken in an area originally occupied by the Yue i* tribe, suggestive of a possible substrate, later to be overlaid by migrations from Northern China in the Medieval Nanbeichao period and the Tang and Song dynasties. This was followed by the Jiang-Huai Mandarin dialects of the migrants who arrived during the Ming and Qing periods, and more recently by Wu dialects in particular, acquired by peripatetic Hui merchants who have represented an active
Some grammatical features of Yangzhou dialect are shared with Jianghuai Mandarin. Others may be of more limited usage but are used in Dingyuan County (the setting of Qingfengzha), which belongs to the same subgroup of Jianghuai.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)