Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838) là cuộc nổi dậy của đa số người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con cháu nhà Lê, của các tù trưởng họ Quách và họ Đinh với danh nghĩa "phù Lê" trong lịch sử Việt Nam.
Mặc dù các vua đầu triều Nguyễn có nhiều cố gắng, nhưng các mặt nông, công, thương đều suy đốn và đình trệ, làm cho các tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận là dân lao động nghèo lâm vào cảnh sống ngày càng cơ cực.
Chẳng những nhà Nguyễn không cải thiện được tình tình mà trái lại, ngày càng thêm rối ren. Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giới địa chủ, nạn những nhiễu của giới quan lại, chế độ thu tô thuế và lao dịch khắc nghiệt, thêm vào đó là nạn thiên tai và ôn dịch xảy ra luôn...tất cả đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, càng làm bùng lên làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân nghèo đói ở khắp mọi miền đất nước chống lại chế độ cai trị của nhà Nguyễn.
Căn cứ sử biên niên của triều Nguyễn, thì chỉ tính trong nửa đầu thế kỷ 19 đã có gần 400 cuộc nổi dậy, trong đó riêng thời Minh Mạng có tới 254 cuộc, lớn nhất là các cuộc nổi dậy của: Phan Bá Vành (1821-1827), Lê Văn Khôi (1833-1836), Nông Văn Vân (1833-1836) và Lê Duy Lương (1832-1838)[1].
Giữa năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long chiếm xong Bắc Hà. Để ngăn ngừa những ý đồ "phù Lê", nhà vua cho thi hành chính sách mua chuộc con cháu nhà Lê. Trong số đó, có Lê Duy Hoán là cháu vua Lê Hiển Tông, được phong tước Diên Tự công cùng một vạn mẫu đất ruộng và 1.016 dân ở Thanh Hóa để dùng vào việc thờ tự các vua Lê.
Theo quyển Quốc triều sử toát yếu, thì tháng 5 năm Đinh Sửu (1817), Lê Duy Hoán và Nguyễn Văn Thuyên (con tướng Nguyễn Văn Thành) có tội phải giết[2].
Theo giáo sư Nguyễn Phan Quang thì âm mưu chống lại nhà Nguyễn của con cháu nhà Hậu Lê đã có mầm mống từ đó (1817)[3].
Đến khi Minh Mạng nối ngôi, nhà vua lần lượt ban hành một số chính sách nhằm thâu tóm mọi quyền hành một cách độc đoán[4]. Trong đó có một chính sách đã làm nên hai cuộc nổi dậy rộng lớn, đó là cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân và cuộc nổi dậy này. Theo sử liệu thì:
Tháng 12 năm Mậu Tý (1828), vua Minh Mạng cho đặt chế độ "lưu quan", tức cử quan lại người Kinh đến ở cạnh các thổ ti, nhằm trực tiếp khống chế họ và tiến hành thu thuế các loại như miền xuôi. Sau đó (1829), nhà vua còn cho bỏ lệ thế tập (cha truyền con nối) của các thổ ti vùng dân tộc ít người, phân chia các đất ấy thành châu, huyện lớn nhỏ tùy theo diện tích và dân số.
Ở các triều đại trước, các thổ ti (hay lang đạo) được hưởng nhiều ưu đãi, thỉnh thoảng họ mới phải triều cống nhà vua mà thôi. Khi ấy tại Hòa Bình, có họ Đinh và họ Quách là hai trong số những họ lang đạo lớn, vốn từng được các vua Lê trọng đãi nên âm thầm tính chuyện khôi phục lại nhà Lê, để địa vị và quyền lợi của họ vẫn được như cũ.
Vì hàm ơn xưa, và cũng vì mưu tính lật đổ chế độ đương thời, nên khi Lê Duy Hoán bị bắt giam, đứa con nhỏ (3 tuổi) thứ hai của ông là Lê Duy Lương, liền được các thủ hạ là anh em họ Quách (Quách Tất Công[5], Quách Tất Tại, Quách Tất Tế,...) đem về cất giấu ở Sơn Âm (Hòa Bình).
Vừa lớn lên, anh em họ Quách đưa Lê Duy Lương vào ở Thạch Bi (Hòa Bình) âm thầm khai khẩn ruộng, rèn vũ khí, vận động binh lính và nhân dân, chuẩn bị làm cuộc nổi dậy đánh đổ nhà Nguyễn, lập lại nhà Lê.
Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương gồm hai giai đoạn:
Trải qua một thời gian dài chuẩn bị, mở đầu là cuộc binh biến ở đồn Ninh Thiện (thuộc Nghệ An) vào tháng 2 năm Nhâm Thìn (1832). Khoảng thời gian ấy, ở phủ Trấn Ninh có hai viên chỉ huy là Trần Tứ và Đỗ Bảo cũng theo tờ thư của Lê Duy Lương, hô hào quân các đội giết chết chánh đội Đỗ Trọng Thai và 8 người lính, đoạt khí giới, rồi theo đường núi Kỳ Sơn, Hội Nguyên mà đi ra Bắc. Dọc đường bị tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự sai quân chặn bắt được và cả hai đều phải tội lăng trì.
Hai vụ khởi binh thiếu đồng bộ này, làm cho vua Minh Mạng khiến các địa phương là Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Sơn Tây phải "phòng triệt cho nghiêm"[6].
Vì bị theo dõi nghiêm nhặt, nên mãi đến tháng 3 năm sau (Quý Tỵ [1833]), cuộc nổi dậy mới chính thức bùng nổ với trận đánh chiếm đồn Chi Nê (nay thuộc huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình).
Nhờ Lê Duy Nhiên đi liên hệ từ trước nên cùng thời gian này, các lang đạo họ Đinh (Đinh Thế Giáp, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh,...) ở Thạch Bi (thuộc Hòa Bình) cùng Ba Nhàn-Tiền Bột ở Sơn Tây, mang khoảng 3000 quân đến hiệp lực, rồi chia nhau đi đánh phá các nơi. Sau đó, quân nổi dậy (đa phần là người Mường ở ba huyện là Lạc Hóa, Phụng Hóa, An Hóa cùng lưu dân nghèo đến từ vùng đồng bằng Bắc Bộ), đã chiếm giữ được ba châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa, Yên Hóa, và bao vây thành trấn Hưng Hóa.
Sách Quốc triều sử toát yếu chép:
Việc tâu lên, vua Minh Mạng liền phái Tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự cùng Tham tán Hoàng Đăng Thận mang 2.000 biền binh, năm con voi đến Ninh Bình. Nhà vua lại cử thêm các tướng là: hộ phủ Thanh Hóa Nguyễn Đăng Giai, lãnh binh Hưng Hóa Phạm Văn Điển, phó lãnh binh Nam Định Lương Văn Liễu, thủy sư Hà Nội Nguyễn Văn Quyền; tức tốc mang quân thủy bộ do mình coi quản tới hội tiễu, rồi cùng tiến đánh giải vây và chiếm lại các nơi trên. Trước lực lượng hùng mạnh này, quân nổi dậy chống giữ không nổi đành phải bỏ các nơi chiếm được, rút về Xích Thổ và Sơn Âm.
Để tận diệt, tháng 4 (âm lịch) năm 1833, vua Minh Mạng lại bổ thống chế Nguyễn Văn Trọng lãnh chức tổng trấn Thanh Hóa, phó đô ngự sử Hà Duy Phiên sung làm than tán quân vụ, dẫn thêm quân đến phối hợp, rồi chia ra làm nhiều mũi cùng kéo đến vây đánh Sơn Âm, nơi đặt đại bản doanh của quân nổi dậy. Trong đạo dụ của nhà vua có đoạn chỉ thị các tướng như sau:
Trước hàng vạn quân triều cùng voi và đại bác, các căn cứ chính của quân nổi dậy lần lượt bị phá vỡ. Sau nhiều ngày giáp chiến ác liệt, đến khoảng tháng 6 (âm lịch) cùng năm (1833) thì Lê Duy Lương và Lê Duy Nhiên đều bị tham tán Hoàng Đăng Thuận bắt sống[9].
Ngay sau đó, Lê Duy Lương và Lê Duy Nhiên đều bị đóng cũi đưa về Huế xử lăng trì.
Mặc dù Lê Duy Lương không còn nữa, nhưng cuộc nổi dậy do ông làm "minh chủ" vẫn chưa chấm dứt. Khoảng ba năm sau (1836), các thủ lĩnh họ Quách, họ Đinh chạy thoát, lại suy tôn một người họ Lê khác tên là Lê Duy Hiển làm "minh chủ", lại liên kết với các lang đạo Mường ở Quan Hóa, Cẩm Thủy, Lang Chánh (vùng thượng du Thanh Hóa), để tiếp tục công cuộc đang dở dang.
Cuối năm đó, quân nổi dậy đánh chiếm được châu lỵ Quan Hóa là Hồi Xuân. Nhờ vậy, thế lực của quân nổi dậy nhanh chóng lan đến các vùng Lôi Dương, Thủy Nguyên, Nông Cống (Thanh Hóa), Quỳ Châu (Nghệ An) ở phía Nam, và Ninh Bình ở phía Bắc.
Hay tin, tháng 2 năm Đinh Dậu (1837), vua Minh Mạng phong tướng Tạ Quang Cự làm Ninh Bình kinh lược đại thần, phong tham tán Hà Duy Phiên làm phó, để cùng đem quân đến đàn áp. Đang lúc ấy, Hà Công Kim và Đinh Kim Bảng chỉ huy một đạo quân nổi dậy đánh chiếm được châu Lang Chánh, giết chết viên tri châu là Hồ Tố Thiện. Lập tức nhà vua điều động thêm hai tướng nữa, đó là đại thần Trương Đăng Quế làm kinh lược đại sứ Thanh Hóa, để hiệp với tổng đốc mới của An Tĩnh là Phạm Văn Điển cùng mang quân đi phối hợp.
Bị các đạo quân triều tấn công dữ dội và dồn dập ở khắp nơi, lực lượng nổi dậy phải lui dần. Ở mặt trận Ninh Bình, tướng Tạ Quang Cự phái lãnh binh Trần Hữu Lễ đem quân chặn đường núi Thạch Bi, rồi tự mình đốc quân tiến đánh Quỳnh Côi. Vì địa hình hiểm trở, quan quân trải bao khóc nhọc mới bắt được Quách Tất Công ở Thượng Lũng, rồi bị tướng Cự lôi ra chém chết.
Theo thông tin trong sách Đại cương lịch sử Việt Nam thì quân nổi dậy tiếp tục bị bao vây và truy đuổi, đến năm 1838, thì "minh chủ" Lê Duy Hiển cùng các tướng lĩnh nghĩa quân lần lượt bị bắt giải về Huế. Đến lúc đó, cuộc đấu tranh này mới chấm dứt hẳn [10].
Tuy nhiên theo Quốc triều sử toát yếu thì Lê Duy Hiển bị Tạ Quang Cự và Hà Duy Phiên bắt sống vào tháng 4 (âm lịch) năm Đinh Dậu (1837). Trong khoảng thời gian đó, các tướng lĩnh cũng lần lượt bị bắt hoặc bị giết chết. Đến tháng 5 (âm lịch) thì vua Minh Mạng đem việc đã dẹp yên đảng giặc trong hai tỉnh là Ninh Bình và Thanh Hóa thông dụ trong ngoài đều biết [11].
Vua Minh Mạng cho xóa sổ xã Sơn Âm, chia hết ruộng đất cho xã khác, đồng thời đày dân làng này ra ở các xã duyên hải của tỉnh Ninh Bình để quản thúc.
Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh, cho nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 qua tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn[12]. Mãi đến Tự Đức năm thứ hai (1849), nhờ lời tâu của Thái bảo Tạ Quang Cự và Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn, nhà vua chấp thuận cho sửa sang đền miếu nhà Lê, cấp tự điền và cử người coi sóc các nơi ấy. Con cháu nhà Lê đều được tùy tiện chọn nơi yên ở.
Và cũng vì chế độ lưu quan đã gây nhiều bất mãn và phiền toái, vào những năm trước khi thực dân Pháp xâm lược, vua Tự Đức cũng đã bỏ chế độ này.
Lời bàn chỉ để tham khảo: