Wrexham A.F.C.

Wrexham
Tập tin:Wrexham A.F.C. Logo.svg
Tên đầy đủWrexham Association Football Club
Biệt danhThe Red Dragons, The Robins, The Town
Tên ngắn gọnWrexham AFC
CPD Wrecsam (tiếng Wales)
Thành lậptháng 10 năm 1864; Lỗi: Tham số đầu tiên không thể được phân tích như một ngày hoặc thời gian. (tháng 10 năm 1864)[1]
Sân vận độngRacecourse Ground
Sức chứa13.341[2]
OwnersWrexham Holdings LLC
(Ryan ReynoldsRob McElhenney)
Người quản lýPhil Parkinson
Giải đấuLeague Two
2022–23National League, 1st of 24 (xuống hạng)
Trang web[<span%20class="url">.co.uk Trang web của câu lạc bộ]
Mùa giải hiện nay

Câu lạc bộ bóng đá Wrexham là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở ở Wrexham, Wales. Thành lập năm 1864,[3] đây là câu lạc bộ lâu đời nhất ở Wales và câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp lâu đời thứ ba trên thế giới.[4] Đội bóng đang thi đấu ở EFL League One, hạng đấu thứ ba trong Hệ thống các giải bóng đá Anh.

Đội tuyển của xứ Wales ban đầu tham gia các trận giao hữu và các giải cúp và lần đầu tiên tham gia một giải vô địch bằng cách gia nhập The Combination vào năm 1890. Đội đã trải qua 13 mùa giải trong Combination và hai mùa giải trong Welsh Senior League, giành bốn chức vô địch Combination và hai chức vô địch Welsh Senior League. Đội bóng gia nhập Birmingham & District League năm 1905, thi đấu cho đến khi trở thành thành viên sáng lập Third Division North của Football League năm 1921. Đội bóng thi đấu ở khu vực phía Bắc trong 37 năm cho đến khi hạng đấu được tái cơ cấu lại thành Third Division năm 1958 và đội xuống hạng hai năm sau đó. Wrexham được thăng hạng khỏi Fourth Division mùa giải 1961–62, và xuống hạng trở lại hai năm sau đó. Đến mùa giải 1969–70, đội thăng hạng trở lại và có lần đầu thi đấu tại Second Division khi vô địch Third Division mùa giải 1977–78. Hai lần xuống hạng liên tiếp chứng kiến đội bóng thi đấu ở hạng bốn năm 1983, và không thể thăng hạng cho đến mùa giải 1992–93. Sau khi xuống hạng một lần nữa năm 2002, đội ngay lập tức giành quyền thăng hạng ở mùa giải 2002–03, trước khi các vấn đề tài chính trở nên tồi tệ hơn dẫn đến một lần xuống hạng khác và sau đó là tuyên bố phá sản vào tháng 12 năm 2004. Phải mất 18 tháng để câu lạc bộ thoát khỏi phá sản và sự suy giảm của câu lạc bộ trên sân cỏ lại tiếp tục, khi câu lạc bộ bị loại khỏi Football League vào năm 2008. Wrexham sau đó đã có năm mùa giải đá play-off không thành công ở hạng đấu thứ năm của hệ thống giải bóng đá Anh, và thăng hạng trở lại khi vô địch National League 2022–23 để trở lại EFL League Two. Vào ngày 13 tháng 3 năm 2024, câu lạc bộ tiếp tục thăng hạng thứ hai liên tiếp lên EFL League One.

Những danh hiệu của Wrexham bao gồm kỷ lục 23 lần vô địch Cúp bóng đá Wales, vô địch Football League Trophy năm 2005 tại Sân vận động Thiên niên kỷ và vô địch FA Trophy năm 2013 tại Sân vận động Wembley. Câu lạc bộ cũng có kỷ lục vô địch của giải chỉ tồn tại trong thời gian ngắn FAW Premier Cup, vô địch năm lần trong số 11 năm tồn tại, tham gia với các câu lạc bộ xứ Wales khác như Cardiff City, Swansea CityNewport County. Tuy nhiên, kình địch lớn nhất của đội bóng lại là các đội bóng ở Anh gồm Chester, Shrewsbury Town, và Tranmere Rovers, với các trận đấu giữa các câu lạc bộ được gọi là derby xuyên biên giới.[5] Năm 1992, Wrexham tạo cú sốc khi đánh bại đương kim vô địch Arsenal tại Cúp FA. Đội bóng có chiến thắng 1–0 trước FC Porto năm 1984 ở European Cup Winners' Cup. Wrexham đủ điều kiện tham dự European Cup Winners' Cup do vô địch Cúp bóng đá Wales; trận đấu đầu tiên của đội ở châu Âu là với FC Zürich của Thụy Sĩ vào năm 1972 và trận đấu cuối cùng diễn ra tại Romania với Petrolul Ploiești vào năm 1995. Sân vận động nhà của Wrexham, Racecourse Ground, là sân vận động quốc tế lâu đời nhất thế giới vẫn tiếp tục tổ chức các trận đấu quốc tế.[6] Kỷ lục về số lượng khán giả đến sân được thiết lập vào năm 1957 khi câu lạc bộ tổ chức một trận đấu với Manchester United trước 34.445 khán giả.[7]

Việc mua lại câu lạc bộ vào năm 2020 của nam diễn viên người Canada Ryan Reynolds và nam diễn viên người Mỹ Rob McElhenney cùng với sự quảng cáo đi kèm từ loạt phim tài liệu Welcome to Wrexham đã tác động đáng kể đến khả năng hiển thị của câu lạc bộ, dẫn đến việc câu lạc bộ có được lượng người hâm mộ toàn cầu mới chưa từng có đối với một đội bóng khi đó đang ở giải hạng năm.[8]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

1864–1905: Một câu lạc bộ của những người tiên phong

[sửa | sửa mã nguồn]
Khách sạn Turf, nơi câu lạc bộ được thành lập năm 1864

Câu lạc bộ được thành lập vào tháng 10 năm 1864 bởi các thành viên của Câu lạc bộ Cricket Wrexham, những người muốn có một hoạt động thể thao trong những tháng mùa đông. Vì vậy đội bóng (sau Sheffield, Cray, HallamNotts County) trở thành đội bóng bầu dục lâu đời thứ năm, câu lạc bộ chuyên nghiệp lâu đời thứ ba và lâu đời nhất ở xứ Wales.[9] Trận đấu đầu tiên diễn ra vào ngày 22 tháng 10 năm 1864 tại Sân vận động Denbighshire County Cricket Ground (The Racecourse) với Prince of Wales Fire Brigade.[10]

Vì luật bóng đá vẫn còn khá lỏng lẻo vào thời điểm đó, các trận đấu đầu tiên có sự góp mặt của các đội có tới 17 cầu thủ ở mỗi bên (16 cầu thủ khi chơi với Văn phòng Bảo hiểm Tỉnh và Đại học Chester, 15 cầu thủ đấu với Đội Cứu hỏa Tình nguyện). Trong những năm đầu này, Wrexham là những người dẫn đầu chiến dịch hạn chế các đội chỉ có 11 cầu thủ trên sân tại bất kỳ thời điểm nào.[11] Năm 1876, Liên đoàn bóng đá Wales mới được thành lập chứng kiến Wales thi đấu trận bóng đá quốc tế đầu tiên, trước Scotland tại The West of Scotland Cricket Club, Partick, với sự góp măt của Edwin CrossAlfred Davies là các cầu thủ đầu tiên trong nhiều cầu thủ của Wrexham F.C. thi đấu cho đội tuyển quốc gia Wales.[12]

Các thành viên đội Wrexham vô địch Cúp bóng đá Wales năm 1878

Vào mùa giải 1877–78, FAW khởi tranh Cúp bóng đá Wales, tương tự với Cúp FA ở Anh. Trận chung kết cúp bóng đá Wales đầu tiên diễn ra tại Acton Park. Wrexham đã vào đến trận chung kết của giải đấu đầu tiên, đánh bại Druids F.C. với tỷ số 1–0, với pha lập công của James Davies.[13][14] Do thiếu kinh phí vì FAW mới thành lập, Wrexham không nhận được cúp cho đến năm sau. Trong thập kỷ đầu tiên của mình, Wrexham chủ yếu chơi các trận giao hữu với cả đối thủ xứ Wales và Anh, với Cúp bóng đá Wales là nơi diễn ra hầu hết các trận thi đấu của đội, và Wrexham lại giành chức vô địch vào năm 1883.[15]

Năm 1883 cũng chứng kiến lần đầu tiên Wrexham xuất hiện tại Cúp FA, khi sau khi được miễn vào vòng hai của giải đấu, đội đã bị đánh bại 3–4 trên sân nhà trước Oswestry. Rắc rối của đám đông tại trận đấu đã khiến câu lạc bộ bị trục xuất khỏi Football Association, dẫn đến việc câu lạc bộ được cải tổ vào năm 1884 với tên gọi Wrexham Olympic. Tên gọi Olympic đã bị bỏ đi vào năm 1888.[16] Nhờ tranh chấp với địa chủ, những người đã tăng tiền thuê Racecourse Ground lên 10 bảng Anh một năm, Wrexham đã chơi các trận đấu trên sân nhà trong các mùa giải 1881–82 và 1882–83 tại Rhosddu Recreation Ground (đổi tên câu lạc bộ thành Wrexham Athletic trong một mùa giải), trước khi chuyển về Racecourse Ground trong mùa giải 1883–84, nơi mà câu lạc bộ đã chơi các trận đấu trên sân nhà kể từ đó.[17]

Năm 1890, Wrexham tham gia giải đấu The Combination, chơi trận đầu tiên với Gorton Villa vào ngày 6 tháng 9 năm 1890, với Arthur Lea ghi bàn thắng duy nhất cho Wrexham trong trận thua 5–1. Lea đã chơi cho câu lạc bộ mặc dù chỉ có một cánh tay[18] giống như người đồng nghiệp James Roberts. Wrexham kết thúc mùa giải ở vị trí thứ hai từ dưới lên ở vị trí thứ tám trong mùa giải đầu tiên. Wrexham đã chơi ở giải Combination trong bốn năm trước khi chi phí tăng nhanh khiến câu lạc bộ phải gia nhập giải Welsh Senior League vào mùa giải 1894–95. Wrexham đã vô địch giải Welsh League trong cả hai năm tham gia, nhưng sau đó lại quyết định quay trở lại giải Combination League vào năm 1896, vì mặc dù nhận được ít sự hỗ trợ hơn, nhưng số tiền tiết kiệm được từ chi phí đi lại đã bù đắp cho khoản giảm doanh thu từ tiền bán vé.

1905–1968: Gia nhập Football League

[sửa | sửa mã nguồn]
Vị trí bảng xếp hạng hàng năm của Wrexham trong hệ thống giải bóng đá Anh

Câu lạc bộ vẫn ở lại Combination League cho đến năm 1905, vào thời điểm đó đội đã nỗ lực để có bốn lần giành chức vô địch. Sau nhiều lần cố gắng không thành công, Wrexham cuối cùng đã được bầu chọn vào Birmingham and District League kịp thời cho đầu mùa giải 1905–06. Trận đấu đầu tiên của Wrexham trong giải đấu này là trên sân nhà với Kidderminster Harriers F.C. tại Racecourse, và hai nghìn khán giả đã chứng kiến Wrexham giành chiến thắng với tỷ số 2–1. Wrexham đứng thứ sáu trong mùa giải đầu tiên tại giải đấu này. Trong thời gian ở Birmingham and District League, Wrexham đã giành chức vô địch Cúp bóng đá Wales sáu lần, vào các năm 1908–09, 1909–10, 1910–11, 1913–14, 1914–15 và 1920–21. Đội cũng lọt vào Vòng Một của Cúp FA lần thứ hai trong mùa giải 1908–09 trước khi thua trận đá lại 1–2 trước Exeter City sau hiệp phụ. Năm 1921, Wrexham được bầu vào hạng Third Division North mới thành lập của Football League. Trận đấu đầu tiên tại Giải đấu là với Hartlepools United tại Racecourse trước 8.000 khán giả. Thi đấu trong màu áo xanh, Wrexham đã bị đánh bại 0–2. Một tuần sau thất bại này, Wrexham đã đi về phía bắc để đấu với Hartlepools và đã trả thù thành công bằng cách đánh bại với tỷ số 1–0 trong một chiến thắng khó khăn. Vào mùa giải đặc biệt này, Wrexham đã đạt được nhiều "lần đầu tiên" trong lịch sử câu lạc bộ, chẳng hạn như khi Ted Regan đã ghi hat-trick đầu tiên cho câu lạc bộ tại Football League và Brian Simpson cũng trở thành cầu thủ Wrexham đầu tiên bị đuổi khỏi sân trong một trận đấu Football League, khi gặp Southport vào tháng 1 năm 1922. Charlie Hewitt là huấn luyện viên đầu tiên của câu lạc bộ trong giai đoạn này. Vào mùa giải 1926–27, câu lạc bộ đã vượt qua Vòng Một của Cúp FA nhưng lại bị loại bởi Rhyl F.C. Mùa giải tiếp theo, Wrexham đã chiến đấu để vào Vòng Bốn trước khi để thua 0–1 trước Birmingham City F.C. Kỷ lục 32 bàn thắng tại giải đấu của Albert Mays đã giúp Wrexham giành được vị trí thứ ba trong giải đấu vào mùa giải 1928–29. Vào cuối mùa giải đó, Tommy Bamford đã có lần ra sân đầu tiên cho câu lạc bộ. Ông đã ghi được 201 bàn thắng tại giải vô địch và giải cúp cho câu lạc bộ trong thời gian ở Racecourse. Trong mùa giải 1929–30, câu lạc bộ đã ghi nhận chiến thắng đậm nhất tại giải vô địch từ trước đến nay khi họ đánh bại Rochdale với tỷ số 8–0. Wrexham đã có mùa giải tốt nhất từ trước đến nay tại Third Division North vào năm 1932–33, khi về nhì sau Hull City và giành chiến thắng 18 trong số 21 trận sân nhà trong suốt mùa giải. Đây là mùa giải đầu tiên câu lạc bộ xuất hiện trong bộ trang phục màu đỏ và trắng quen thuộc của mình lần đầu tiên trong mùa giải 1939–40 ngắn ngủi. Trong những năm Thế chiến thứ hai, khi những chuyến đi dài xuyên quốc gia là điều không thể bởi vì chiến tranh, Wrexham đã chơi ở Regional League West với các đội địa phương từ MerseysideManchester, trong số những đội khác ở vùng tây bắc. Vị trí của Wrexham là một thị trấn doanh trại có nghĩa là đội có thể đảm bảo được sự phục vụ của nhiều cầu thủ khách mời nổi tiếng như Stanley Matthews, Stan Cullis và những người khác. Trong mùa giải đầu tiên sau chiến tranh, Wrexham đã cân bằng vị trí tốt nhất từ trước đến nay của mình khi một lần nữa đứng thứ ba ở Third Division North. Vào mùa hè năm 1949, câu lạc bộ đã có chuyến du đấu nước ngoài đầu tiên khi chơi ba trận với quân đội Anh tại Đức. Câu lạc bộ đã lọt vào Vòng Bốn của Cúp FA năm 1956–57, chạm trán với Manchester United của Busby Babes trước đám đông 34.445 người tại Racecourse, đây vẫn là kỷ lục của câu lạc bộ. Thất bại 5–0 không làm hỏng dịp này đối với đám đông lớn của sân nhà, và sau đó trong mùa giải đó, Wrexham đã giành được Cúp bóng đá Wales lần đầu tiên sau 26 năm. Năm 1960 chứng kiến câu lạc bộ xuống hạng thấp hơn lần đầu tiên trong lịch sử của đội, và đã xuống Hạng Fourth Division mới thành lập. Nhưng thành tích của đội đã được cải thiện sau khi bổ nhiệm Ken Barnes làm cầu thủ kiêm huấn luyện viên. Ông đã dẫn dắt Wrexham thăng hạng lên hạng ba trong mùa giải đầu tiên phụ trách và có chiến thắng 10–1 trước Hartlepool United, đây vẫn là chiến thắng kỷ lục của câu lạc bộ tại giải đấu. Hai năm sau khi thăng hạng, Wrexham lại xuống Hạng Fourth Division, và vào năm 1966, đội đã kết thúc ở vị trí cuối bảng ở vị trí thứ 92 tại Football League sau một mùa giải cực kỳ đáng thất vọng.

1968–1982: Những năm tháng huy hoàng

[sửa | sửa mã nguồn]

John Neal được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Wrexham vào năm 1968, kế nhiệm Alvan Williams, người đã đưa Neal đến câu lạc bộ với tư cách là trợ lý của mình. Ông đã dẫn dắt câu lạc bộ giành vị trí thứ 9 vào năm 1969, trước khi dẫn dắt Wrexham thăng hạng Football League lần thứ hai vào năm 1970 với vị trí thứ hai và thăng hạng lên Third Division. Với các câu lạc bộ Wales hiện có thể đủ điều kiện tham dự European Cup Winners' Cup bằng cách vô địch Cúp bóng đá Wales, Wrexham đã chơi trận đấu đầu tiên tại đấu trường châu Âu với câu lạc bộ FC Zurich tại Thụy Sĩ vào ngày 13 tháng 9 năm 1972, trận đấu kết thúc với tỷ số 1–1. Ở trận lượt về, Wrexham giành chiến thắng 2–1, tiến vào vòng hai với chiến thắng chung cuộc 3–2. Vòng thứ hai đã đưa Wrexham vào cuộc đối đầu với đội bóng Nam Tư Hajduk Split. Trong suốt hai trận đấu, tỷ số chung cuộc là 3–3 khi Wrexham cân bằng tỷ số với đối thủ lừng lẫy hơn so với mình, nhưng đã bị loại do luật bàn thắng sân khách. Mùa giải 1972–73 chứng kiến sự hoàn thành của khán đài Yale mới, với sức chứa lên tới 5.500 người. Bao gồm cả sân thượng giúp tạo nên tầng dưới cùng của khán đài. Mùa giải 1973–74 chứng kiến Wrexham thay đổi biểu trưng từ đỉnh Maelor thành một huy hiệu hoàn toàn mới giống với nguồn gốc xứ Wales của câu lạc bộ hơn nhiều, với ba chiếc lông vũ trên đỉnh huy hiệu và hai con rồng, một ở mỗi bên huy hiệu và hướng vào trong. Đây vẫn là huy hiệu của đội bóng ngày nay. Mùa giải này cũng chứng kiến Wrexham lọt vào tứ kết Cúp FA trong một mùa giải khác. Sau những chiến thắng trước Shrewsbury Town, Rotherham United, Middlesbrough, Crystal Palace và Southampton, chiến dịch kết thúc với thất bại trước đội bóng First Division Burnley tại Turf Moor, với 15.000 cổ động viên Wrexham có mặt để chứng kiến trận đấu.[19] Cũng trong mùa giải đó, Wrexham đã bỏ lỡ cơ hội thăng hạng khi kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 4.

Hậu vệ Alan Hill thi đấu hơn 250 trận cho từ năm 1973 đến năm 1983.

Mùa giải 1975–76 chứng kiến các ngôi sao trẻ của John Neal do Eddie May làm đội trưởng, một lần nữa gây chấn động thế giới bóng đá khi lọt vào tứ kết European Cup Winners' Cup sau một chiến dịch cúp huy hoàng khác và đánh bại một số đối thủ chất lượng hơn. Ở vòng đầu tiên, Wrexham đã đánh bại đội Thụy Điển Djurgårdens IF với tỷ số 3–2 sau hai lượt trận. Sau đó, họ đã đánh bại đội Ba Lan Stal Rzeszow với tỷ số 3–1 sau hai lượt trận. Wrexham đã đấu với nhà vô địch Bỉ Anderlecht ở tứ kết và để thua sít sao 2–1 trước đội sau đó đã đăng quang chức vô địch.Bản mẫu:Cần trích dẫn Mùa giải 1976–77 chứng kiến Wrexham một lần nữa đánh bại đối thủ ở First Division ở cả hai giải đấu Cúp khi tiếp tục một chiến dịch cúp khác, đánh bại Tottenham Hotspur ở Cúp Liên đoàn và Sunderland ở Cúp FA. Tuy nhiên, đây là một mùa giải bi thảm khi câu lạc bộ, đang trên bờ vực thăng hạng lên Second Division khi chỉ còn bốn trận đấu nữa là kết thúc, chỉ cần ba điểm để đạt được mục tiêu của mình, đã bỏ lỡ sau một chuỗi trận kém cỏi.

Arfon Griffiths đảm nhiệm vai trò cầu thủ kiêm huấn luyện viên cho mùa giải 1977–78. Đội đã lọt vào cả tứ kết League và Cúp FA trong mùa giải đó, và Wrexham cuối cùng đã giành quyền thăng hạng lên Second Division khi đánh bại Rotherham United với tỷ số 7–1 tại một sân vận động Racecourse chật kín khán giả, Wrexham đã giành chức vô địch Third Division trong năm đó. Trong mùa giải 1978–79, Wrexham đã lọt vào vòng Bốn của FA Cup, nơi đội để thua Tottenham Hotspur 3–2 trong trận đá lại sau khi trận đầu tiên kết thúc với tỷ số 3–3. Đội Spurs có những ngôi sao trong đội hình như Ossie Ardiles, Ricky VillaGlenn Hoddle, và Wrexham đã bị đánh bại và bị loại. Sau khi Arfon Griffiths từ chức huấn luyện viên vào năm 1981, trợ lý của ông là Mel Sutton đã được giao phụ trách, với chiến thắng ở vòng Ba Cúp FA trước Nottingham Forest của Brian Clough trong một trận đấu cúp khác được xem là đỉnh cao của mùa giải.

1982–1991: Sự sa sút

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa hè năm 1982 chứng kiến Bobby Roberts được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của câu lạc bộ. Việc xuống hạng có nghĩa là câu lạc bộ gặp vấn đề tài chính nghiêm trọng, dẫn đến việc phải bán đi nhiều cầu thủ giàu kinh nghiệm và tài năng của câu lạc bộ. Frank Carrodus, Ian Edwards, Mick Vinter và Wayne Cegieski đã rời đi trong mùa hè, Steve Fox, Joey Jones, Dixie McNeil và Billy Ronson cũng sớm rời đi. Wrexham một lần nữa xuống hạng Fourth Division sau khi tụt dốc không phanh từ vị trí an toàn giữa bảng xếp hạng. Câu lạc bộ tiếp tục trượt dốc vào mùa giải tiếp theo và chỉ có hiệu số bàn thắng bại mới tránh cho Wrexham buộc phải nộp đơn xin tái tranh cử vào Football League. Mùa giải 1984–85 chứng kiến Wrexham đối đầu với FC Porto ở đấu trường châu Âu. Wrexham giành chiến thắng 1–0 trên sân nhà, nhưng ở lượt về, Porto đã thể hiện đẳng cấp của mình và dẫn trước 3–0 sau 38 phút. Tuy nhiên, Wrexham đã ghi lại bàn thắng và trận đấu kết thúc với tỷ số 4–3, nâng tổng tỷ số lên 4–4 với Wrexham đi tiếp nhờ luật bàn thắng sân khách. Trong lễ bốc thăm vòng hai, Wrexham đối đầu với câu lạc bộ Ý AS Roma, do Sven-Göran Eriksson dẫn dắt. Wrexham thua 3–0 trên tổng tỷ số sau hai lượt trận. Thành tích của đội tại giải thậm chí còn tệ hơn năm trước và vào thời điểm Bobby Roberts cuối cùng bị cách chức, Wrexham đã đứng cuối bảng xếp hạng của toàn bộ Football League.

Cựu cầu thủ được yêu thích của Racecourse Dixie McNeil được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm quyền, và ngay lập tức truyền cảm hứng cho sự hồi sinh khi chứng kiến Wrexham giành chiến thắng 7 trong số 10 trận đấu cuối cùng và dễ dàng về đích mà không phải nộp đơn xin tái tranh cử, điều này đã giúp ông có được công việc chính thức vào mùa hè năm đó. Mùa giải đầu tiên ông phụ trách đã chứng kiến đội kết thúc ở vị trí giữa bảng trong một mùa giải trung bình, ông đã dẫn dắt đội giành chiến thắng trong trận chung kết Cúp bóng đá Wales trước Kidderminster Harriers. Năm 1986 chứng kiến Wrexham trở lại bóng đá châu Âu với trận hòa ở vòng Một với đội bóng Malta FC Zurrieq, đánh bại với tỷ số 7–0 sau hai lượt trận để giành quyền vào vòng Hai với Real Zaragoza. Đội đã hòa 2–2 sau hai lượt trận nhưng bị loại vì luật bàn thắng trên sân khách.Bản mẫu:Cần trích dẫn

Sau vụ hỏa hoạn sân vận động Bradford City vào tháng 5 năm 1985, luật về an toàn mặt sân tại tất cả các sân bóng đá đã có hiệu lực. Điều này cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa khán đài Mold Road vì không đạt được các tiêu chuẩn an toàn cần thiết. Dưới sự dẫn dắt của Dixie McNeil, Wrexham đã lọt vào vòng play-off Fourth Division năm 1989, sau khi kết thúc ở vị trí thứ bảy trong giải đấu. Wrexham đã đánh bại Scunthorpe United ở bán kết với tỷ số chung cuộc 5–1, nhưng để thua sít sao trước Leyton Orient với tỷ số 2–1 trong trận chung kết. Sau khi Wrexham bắt đầu mùa giải tiếp theo với chỉ 3 chiến thắng sau 13 trận đấu tại giải đấu, Dixie McNeil đã từ chức trước khi việc bị sa thải là không thể tránh khỏi.

Ông ban đầu được tạm thời thay thế bởi Brian Flynn, nhưng việc bổ nhiệm ông đã trở thành chính thức một tháng sau đó. Tuy nhiên, câu lạc bộ vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong nước và Flynn buộc phải thực hiện ba bản hợp đồng quan trọng là Mark Sertori, Eddie YoudsAlan Kennedy giúp đội kết thúc ở vị trí thứ hai mươi mốt, do đó tránh được việc xuống hạng. Vào đầu mùa giải 1990–91, ban tổ chức thông báo sẽ không có sự xuống hạng nào đối với Conference Premier vì một đội đã tự nguyện rời khỏi giải đấu. Mùa giải đó, Wrexham kết thúc ở vị trí thứ chín mươi hai. Wrexham đã bị loại khỏi European Cup Winners' Cup ở vòng Hai trước Manchester United với tỷ số chung cuộc 5–0, đội sau đó cuối cùng đã giành được cúp.[cần dẫn nguồn]

1991–2001: Kẻ hủy diệt những người khổng lồ

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 1991–92 chứng kiến Wrexham vẫn trong tình trạng tài chính kém, khi phải tiếp tục vật lộn trên sân cỏ. Với việc câu lạc bộ bị loại khỏi League Cup và vật lộn ở giải đấu, đội phải nhờ đến Cúp FA để giữ cho mùa giải tiếp tục. Sau khi đánh bại Telford UnitedWinsford United, đội đã được đưa vào trận đấu với đương kim vô địch First Division mùa giải trước Arsenal. Wrexham đã tạo nên một trong những đêm đáng nhớ nhất của mình khi đánh bại Gunners 2–1 sau khi bị dẫn trước, với cú sút phạt của Mickey Thomas và bàn thắng của Steve Watkin. Đội sau đó thất bại ở vòng tiếp theo trước West Ham United với thất bại 1–0 trong trận đá lại [20] after the first game had finished 2–2.

Trong nỗ lực thay đổi vận mệnh của câu lạc bộ sau nhiều mùa giải ảm đạm ở cuối bảng xếp hạng, mùa giải 1992–93 chứng kiến huấn luyện viên Brian Flynn của Wrexham thực hiện một bản hợp đồng khôn ngoan khi ông chiêu mộ Gary Bennett, người đã nhanh chóng ổn định và giúp Wrexham tham gia cuộc đua thăng hạng. Mùa giải của Wrexham lên đến đỉnh điểm vào ngày 27 tháng 4 năm 1993 khi chỉ còn hai trận đấu nữa là đội phải đến Northampton Town với mục tiêu phải giành chiến thắng để thăng hạng lên hạng đấu cao hơn của bóng đá Anh. Trận đấu kết thúc với chiến thắng 2–0 cho Wrexham và 5.500 cổ động viên "Reds" đến sân đã vô cùng vui mừng khi cuối cùng đội đã giành được quyền thăng hạng. Mùa giải 1994–95 chứng kiến Wrexham đạt được nhiều thành công hơn ở các giải đấu cúp, lần này là tham gia tranh tài tại Cúp FA. Sau khi đánh bại Stockport County và Rotherham United, đội đối mặt với đội bóng Ngoại hạng Anh Ipswich Town tại Racecourse, và Wrexham giành chiến thắng 2–1 nhờ các bàn thắng của Gary BennettKieron Durkan. Ở vòng tiếp theo, Wrexham đã phải làm khách trước Manchester United và mặc dù bị dẫn trước tại Old Trafford, United vẫn giành chiến thắng 5–2.

Mùa giải 1995–96 một lần nữa chứng kiến Wrexham tham gia đấu trường châu Âu, lần này đối thủ của đội đến từ Rômania Petrolul Ploiești; trận lượt đi trên sân nhà kết thúc với tỷ số hòa 0–0 nhưng Wrexham đã thua 1–0 ở trận lượt đi, khi đội bóng Rômania ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu, và Wrexham sau đó đã bị loại khỏi giải. Mùa giải 1996–97 chứng kiến Wrexham khởi đầu một hành trình mạnh mẽ khác tại Cúp FA và đánh bại nhiều đối thủ ở hạng đấu cao hơn. Sau những chiến thắng tại Colwyn Bay và Scunthorpe United, đội đã được bốc thăm để chơi với West Ham United trên sân nhà, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1–1 trên một sân phủ đầy tuyết. Trận đấu lại tại Upton Park đã kết thúc với chiến thắng bất ngờ 1–0 trước Wrexham khi Kevin Russell ghi bàn ở những phút cuối cùng để đưa Wrexham vào vòng Bốn.[21] Sau khi tiếp tục đánh bại Peterborough United và Birmingham City ở các vòng tiếp theo, đội thi đấu với Chesterfield trong trận tứ kết toàn Second Division, Wrexham thua sát nút 1–0 trước The Spireites.

Tháng 6 năm 1997 là ngày khánh thành chính thức Colliers Park, sân tập mới của Wrexham và nằm ngay bên ngoài Gresford trên Chester Road. Sân được xây dựng với chi phí 750.000 bảng Anh và được coi là một trong những sân tập tốt nhất bên ngoài hạng đấu cao nhất. Sân đã được nhiều đội khách sử dụng để tập luyện, chơi ở trình độ cao hơn trong nhiều năm, chẳng hạn như Barcelona.[22] Mùa giải 1999–2000 chứng kiến Wrexham một lần nữa đánh bại một đội bóng hàng đầu tại Cúp FA, lần này là Middlesbrough. Tỷ số chung cuộc của trận đấu là 2–1, với các bàn thắng trong hiệp hai đến từ Robin GibsonDarren Ferguson sau khi bị đội bóng Ngoại hạng Anh dẫn trước. Wrexham đã giành chức vô địch FAW Premier Cup vào tháng 5 năm 2001.[23]

2001–2008: Phá sản và trượt dài xuống bóng đá non-League

[sửa | sửa mã nguồn]
Trận đấu tại Racecourse năm 2004

Vào đầu thế kỷ 21, câu lạc bộ gặp phải nhiều vấn đề ngoài sân cỏ, bao gồm cả việc chủ tịch Alex Hamilton khi đó cố gắng đuổi câu lạc bộ khỏi sân vận động để ông có thể sử dụng và bán nó cho mục đích phát triển của riêng mình - câu chuyện liên quan đến việc bán Racecourse Ground cho một công ty riêng do Hamilton sở hữu ngay sau khi ông trở thành chủ tịch câu lạc bộ..[24] Câu lạc bộ được đưa vào FIFA Football 2004 lần đầu tiên và vẫn có thể chơi cho đến FIFA 08. Vào mùa hè năm 2004, Hamilton đã thông báo cho câu lạc bộ có thời hạn một năm để rời khỏi sân vận động.[25]

Người hâm mộ câu lạc bộ đã phát triển mối quan hệ thân thiết với người hâm mộ của câu lạc bộ bóng đá đồng hương Brighton & Hove Albion, những người đã thành công trong việc hạ bệ chủ tịch của họ và giữ quyền kiểm soát sân vận động sau khi ông bán sân để phát triển trong hoàn cảnh gần như tương tự.[26] Vào ngày 3 tháng 12 năm 2004, câu lạc bộ đã bị Tòa án tối cao ở Manchester đưa vào diện quản lý tài chính vì câu lạc bộ nợ 2.600.000 bảng Anh, bao gồm 800.000 bảng Anh nợ Cục thuế Inland Revenue tiền thuế chưa nộp. Wrexham trở thành câu lạc bộ đầu tiên của Football League bị trừ mười điểm theo quy định mới vì bị đưa vào diện quản lý, khiến họ tụt hạng từ giữa bảng xếp hạng League One xuống khu vực xuống hạng sau khi bị trừ điểm, và sau đó Wrexham phải xuống hạng.[27]

Ngày 5 tháng 5 năm 2007: Ryan Valentine ghi bàn thắng vào lưới Boston giúp Wrexham tiếp tục ở lại Football League

Bất chấp những khó khăn về tài chính, Wrexham vẫn tiếp tục giành được chức vô địch Football League Trophy 2004–05 bằng cách đánh bại Southend United với tỷ số 2–0 sau hiệp phụ, trong lần đầu tiên Wrexham xuất hiện tại Sân vận động Thiên niên kỷ tại Cardiff.[28] The winning goals were scored by Juan UgarteDarren Ferguson as Wrexham ran out winners in front of nearly 20,000 Wrexham fans.[29] Wrexham vẫn giữ được cơ hội thoát khỏi sự xuống hạng trong mùa giải 2004–05 sau chuỗi chiến thắng vào cuối mùa giải; tuy nhiên, hy vọng mong manh về việc trụ hạng đã kết thúc với trận thua 2–1 trên sân nhà trước Brentford vào ngày 3 tháng 5 năm 2005. Việc trừ 10 điểm đã chứng tỏ là yếu tố quyết định trong việc xác định số phận của Wrexham, khi câu lạc bộ về đích với 43 điểm so với Milton Keynes Dons F.C. Milton Keynes Dons xếp thứ 20 với 51 điểm - tổng số điểm ròng là 53 sau khi trừ điểm, điều này đã khiến họ phải xuống hạng.[30]

Vào tháng 10 năm 2005, Tòa án tối cao Birmingham đã ra phán quyết rằng công ty CrucialMove của Alex Hamilton đã chiếm đoạt quyền sở hữu đất đai một cách bất hợp pháp và phán quyết này đã chống lại ông.[31] Sau đó, Hamilton đã đưa vụ việc này lên Tòa Phúc thẩm ở London và tòa đã ra phán quyết vào ngày 14 tháng 3 năm 2006 rằng sân vận động phải nằm trong tay những người quản lý câu lạc bộ.[32] Vào ngày 30 tháng 4 năm 2006, những người quản lý đã đạt được thỏa thuận với đại lý ô tô địa phương Neville Dickens, tùy thuộc vào sự đồng ý của các cổ đông và chủ nợ (đã đạt được vào ngày 30 tháng 5), để Dickens tiếp quản quyền kiểm soát câu lạc bộ và toàn bộ tài sản của câu lạc bộ.[33] Nếu câu lạc bộ vẫn đang trong tình trạng quản lý cho đến ngày 3 tháng 6 thì Wrexham sẽ tự động bị trục xuất khỏi Football League vì tình hình tài chính của mình. Wrexham Football Club (2006) Ltd là tên của công ty "phoenix" đã tiếp quản tài sản của Wrexham Association Football Club Limited cũ – về mặt kỹ thuật, câu lạc bộ không còn được gọi là Wrexham Association Football Club nữa do Neville Dickens, Geoff Moss và các cộng sự của họ đã tiếp quản câu lạc bộ; điều này được phản ánh trên các mặt hàng mới, mặc dù hầu hết người hâm mộ vẫn sẽ gọi là "Wrexham AFC".

Ngày 5 tháng 5 năm 2007: Bảng điểm hiển thị tỷ số cuối cùng của trận đấu giúp Wrexham tiếp tục ở lại Football League và đẩy Boston United xuống Conference

Mùa giải 2006–07 khởi đầu tốt đẹp cho Wrexham khi đội bất bại 8 trận.[34] Tuy nhiên, câu lạc bộ sau đó đã phải vật lộn với việc Denis Smith cuối cùng bị sa thải vào tháng 1 năm 2007 khi Wrexham ở nửa dưới của giải đấu và sau một chuỗi kết quả kém.[35] Ông bị thay thế bởi Brian Carey.[36] Wrexham về đích thứ 19 League Two với 51 điểm[37] sau một chuỗi phong độ ấn tượng vào cuối mùa giúp đội giành chiến thắng ở 4 trong số 5 trận gần nhất, bao gồm cả việc đánh bại đối thủ địa phương Shrewsbury trong trận derby cuối cùng tại Gay Meadow. Vị thế của Wrexham tại giải đấu đã được cứu vớt tại vòng đấu cuối cùng của mùa giải với chiến thắng quan trọng 3–1 vào ngày 5 tháng 5 năm 2007 trước Boston United trên sân nhà, qua đó đưa đối thủ xuống Conference Premier và đảm bảo rằng Wrexham sẽ ở lại Football League.[38]

Kỳ vọng rất cao cho mùa giải 2007–08 khi người hâm mộ mong đợi một cú hích thăng hạng. Tuy nhiên, mùa giải bắt đầu không tốt khi câu lạc bộ xếp thứ 24 vào tháng 11 năm 2007. Brian Carey cuối cùng đã bị sa thải, và vào ngày 15 tháng 11 năm 2007, Brian Little được bổ nhiệm làm huấn luyện viên mới của Wrexham và là người thay thế Carey, người đảm nhận vai trò trợ lý huấn luyện viên.[39] Sau khởi đầu đầy hứa hẹn cho triều đại của mình, Wrexham đã trải qua chuỗi bảy trận thua liên tiếp tại giải đấu, khiến câu lạc bộ phải đưa về mười một cầu thủ mới trong kỳ chuyển nhượng tháng Giêng..[40][cần dẫn nguồn] Wrexham đã trải qua sáu trận bất bại trước khi có phong độ kém cỏi khi để thua một số đối thủ cũng đang vật lộn. Wrexham cuối cùng đã phải xuống chơi tại non-League sau trận thua 2–0 trên sân khách trước Hereford United, chấm dứt 87 năm trụ lại Football League của câu lạc bộ.[41]

2008–2020: Những năm tháng ở non-League

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2008–09 khởi đầu suôn sẻ với chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Stevenage Borough.[42] Tuy nhiên, một loạt kết quả kém cỏi đã xảy ra, với việc Wrexham bị bỏ lại trong cuộc chiến giữa bảng xếp hạng, chỉ hơn nhóm xuống hạng bốn điểm và chỉ giữ sạch lưới hai lần trong cả mùa giải. Sau trận thua 3–0 trên sân nhà trước Rushden and Diamonds, và người hâm mộ kêu gọi sa thải ông, Little rời Wrexham theo sự đồng thuận chung của hai bên.[43] Little was replaced by Dean Saunders.[44] Wrexham's first full season in the Conference Premier ended in a disappointing 10th place.[45] Mùa giải 2009–10 sau đó kết thúc theo cách tương tự với Wrexham ở vị trí thứ 11, kém xa tốc độ của cuộc cạnh tranh suất thăng hạng.[46]

Wrexham tại Sân vận động Wembley năm 2013

Vào tháng 3 năm 2011, quyền sở hữu câu lạc bộ đã phải chịu sự đấu thầu của hai bên: một từ Wrexham Supporters' Trust và một từ nữ doanh nhân địa phương Stephanie Booth.[47] Wrexham's MP and AM indicated that they would prefer Wrexham Supporters' Trust to secure the bid.[48] Một lời đề nghị thứ ba sau đó đã được đưa ra, nhưng sau khi WST và Booth đạt được thỏa thuận, lời đề nghị đã được chấp nhận lại. Vào tháng 4 năm 2011, câu lạc bộ đã nhận được lệnh thanh lý từ HMRC, với hóa đơn thuế chưa thanh toán chỉ dưới 200.000 bảng Anh.[49] Đội đã kết thúc mùa giải 2010–11 ở vị trí thứ 4, đủ điều kiện tham dự playoff, nhưng đã bị Luton Town đánh bại với tỷ số chung cuộc 5–1 ở bán kết.[50]

Trong mùa giải 2011–12, Wrexham được mời trở lại Cúp bóng đá Wales sau 16 năm, tham gia ở Vòng Ba.[51] Huấn luyện viên mới Andy Morrell dẫn dắt Wrexham đạt kỷ lục 98 điểm nhưng điều này không đủ để giành quyền thăng hạng tự động, vì đội kết thúc mùa giải chỉ kém Fleetwood Town 5 điểm, đội giành được vị trí tự động duy nhất.[52] Wrexham lost in the play-offs to Luton Town again.[53] Wrexham đã giành được vị trí trong cả chung kết FA Trophychung kết play-off Conference Premier, hai lần đầu tiên đội xuất hiện tại Sân vận động Wembley trong lịch sử 150 năm của câu lạc bộ cho đến nay, và chỉ trong vòng năm tuần. Trong trận chung kết FA Trophy, Wrexham đã giành chiến thắng trên chấm phạt đền sau khi hòa 1–1 với Grimsby Town.[54] Chiến thắng 5–2 sau hai lượt trận trước Kidderminster Harriers trong trận bán kết play-off giúp Wrexham vào trận chung kết đối đầu với Newport County, trận chung kết play-off đầu tiên có sự góp mặt của hai đội bóng Wales; và Newport đánh bại Wrexham 2–0.[55]

Vào tháng 6 năm 2013, các thành viên của Wrexham Supporters Trust đã bỏ phiếu về việc liệu họ có nên đổi tên câu lạc bộ trở lại thành Wrexham AFC hay không..[56] As a result, the name was changed.[57]

Vào tháng 2 năm 2014, Andy Morrell đã từ chức huấn luyện viên.[58] Billy Barr được bổ nhiệm làm quản lý tạm thời trước khi bị thay thế vài tuần sau đó bởi Kevin Wilkin.[59] Wrexham về đích mùa giải 2013–14 ở vị trí thứ 17.[60] Ở mùa giải 2018–19, Wrexham về đích thứ 4 nhưng thua trận tứ kết play-off trước Eastleigh.[61] Ở mùa giải 2019–20, câu lạc bộ kết thúc ở vị trí thứ 19 về số điểm mỗi trận sau khi mùa giải kết thúc sớm do đại dịch COVID-19, vị trí thấp nhất trong lịch sử 150 năm của câu lạc bộ.[62][63]

2020–nay: Chủ sở hữu mới, trở lại EFL

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 11 năm 2020, nam diễn viên người Mỹ gốc Canada Ryan Reynolds và nam diễn viên người Mỹ Rob McElhenney, thông qua Công ty RR McReynolds LLC đã mua câu lạc bộ. Thỏa thuận này nhận được sự ủng hộ của 98,6% trong số 2.000 thành viên của Wrexham Supporters Trust đã bỏ phiếu [64][65] và hoàn tất vào tháng 2 năm 2021. Đội được đưa vào FIFA 22 trong mục "Rest of World", trở thành đội bóng non-league đầu tiên xuất hiện trong game.[66] Vào 2021–22, Wrexham đứng thứ 2 trước khi thua trận bán kết play-off với tỷ số 5–4 trước Grimsby Town sau hiệp phụ.[67] Wrexham cũng vào chung kết FA Trophy 2022 và thất bại 1–0 trước Bromley.[68]

Sau khi tiếp quản, một loạt phim tài liệu có tên Welcome to Wrexham đã được công bố là đang được sản xuất cho FX với Boardwalk Pictures. Loạt phim ra mắt vào ngày 24 tháng 8 năm 2022 trên FX và Hulu tại Hoa Kỳ, sau đó là bản phát hành trên Disney+ tại Vương quốc Anh và Ireland vào ngày hôm sau.[69][70][71] Việc Reynolds và McElhenney mua lại cùng với sự quảng cáo đi kèm từ Welcome to Wrexham đã có tác động đáng kể đến khả năng hiển thị của câu lạc bộ, dẫn đến việc câu lạc bộ có được lượng người hâm mộ toàn cầu mới chưa từng có đối với một đội bóng ở hạng năm.[8][72][73] Vận may của câu lạc bộ bắt đầu thu hút sự đưa tin chuyên sâu từ các phương tiện truyền thông thể thao toàn cầu mà thông thường các đội bóng bên ngoài Premier League sẽ không được hưởng.[74] Điều này đã tạo nên một cuộc tranh luận về khả năng sao chép tiềm tàng của chiến lược này đối với các câu lạc bộ và giải đấu ít được biết đến khác, với The Guardian nhận xét rằng "mọi người đều muốn 'làm một Wrexham', nhưng không phải ai cũng có thể."[75]

Trong mùa giải 2022–23, đội đã tiến vào vòng 4 của Cúp FA 2022–23, là đội duy nhất của National League làm được điều này, đánh bại Coventry City ở vòng Ba, và sau đó bị Sheffield United trong trận đá lại. Trận đấu đầu tiên với Sheffield United, kết thúc với tỷ số hòa 3–3, là trận bóng đá được theo dõi nhiều nhất trên các nền tảng kỹ thuật số của ESPN.[76] Wrexham đã cạnh tranh với Notts County trong suốt mùa giải để dẫn đầu giải đấu, cạnh tranh vị trí số một, và cả hai đều lập kỷ lục mới của National League về số trận thắng, số bàn thắng và hiệu số bàn thắng bại, trong khi hơn đội đứng thứ ba hơn 20 điểm vào cuối mùa giải.[77] Vào ngày 22 tháng 4 năm 2023, Wrexham đã giành được chức vô địch giải đấu đầu tiên sau 45 năm và được thăng hạng lên EFL League Two sau 15 năm vắng bóng, sau chiến thắng 3–1 trước Boreham Wood.[78] Câu lạc bộ đã tích lũy được 111 điểm trong mùa giải đó, một kỷ lục đối với năm hạng đấu hàng đầu của giải bóng đá Anh, đánh bại Notts County để giành chức vô địch và một suất thăng hạng tự động duy nhất.[79][80] Đội đã tham gia The Soccer Tournament đầu tiên vào tháng 6 năm 2023, và bị Conrad và Beasley United loại ở vòng 16 đội.[81] Vào ngày 5 tháng 8 năm 2023, Wrexham đã chơi trận đấu đầu tiên tại Football League sau 15 năm, để thua trên sân nhà trước MK Dons.[82] Thu nhập của Wrexham AFC tăng lên hơn 10 triệu bảng Anh trong năm tính đến tháng 6 năm 2023.[83]

Trong mùa giải 2023-24, Wrexham đã giành được lần thăng hạng thứ hai liên tiếp, đưa câu lạc bộ lên EFL League One, giải hạng ba của hệ thống bóng đá Anh [84][85] và cán đích ở vị trí thứ hai sau Stockport County F.C..[86] Wrexham đã được trao tặng danh hiệu Category Four Bốn với tư cách là học viện EFL từ mùa giải 2023/24 với mục tiêu ngắn hạn là đạt được danh hiệu Category Three [87] và điều hành một đội U-18. Cổ động viên Club Necaxa đã mua 5% Wrexham AFC vào tháng 4 năm 2024[88] và cả hai chủ sở hữu, lần lượt mua một phần nhỏ cổ phần của Necaxa. Học viện được trao tặng danh hiệu Category Three với tư cách là học viện EFL từ mùa giải 2024/25.[89] Câu lạc bộ bóng đá đã gia nhập Hiệp hội câu lạc bộ châu Âu vào tháng 8 năm 2024.[90]

Mùa giải 2024–25 khởi tranh với trận đấu tại League One đầu tiên sau 19 năm và với trận đấu giải đấu thứ 5000 được ghi nhận cho câu lạc bộ,[91] với chiến thắng 3–2 trên sân nhà trước Wycombe Wanderers. Gia đình Allyn của Skaneateles, New York đã được công bố là nhà đầu tư thiểu số mới của câu lạc bộ vào tháng 10 năm 2024.[92]

Tài trợ

[sửa | sửa mã nguồn]

Trang phục sân nhà của Wrexham là áo đỏ, quần trắng và tất trắng. Câu lạc bộ đã chơi trong trang phục chủ yếu là màu đỏ với các chi tiết màu trắng kể từ cuối những năm 1930. Trang phục sân khách là áo trắng, quần đỏ và tất đỏ. Vào năm 2014–15, để kỷ niệm 150 năm thành lập câu lạc bộ, Wrexham đã mặc một chiếc áo sân nhà có viền đỏ và đen của Nike vì đây là chiếc áo sân nhà đầu tiên được ghi nhận của câu lạc bộ.[93] Macron là nhà cung cấp trang phục cho Wrexham AFC từ năm 2016 và đã giúp sắp xếp trại huấn luyện trước mùa giải cho đội một vào trước mùa giải 2017 tại Bồ Đào Nha, nơi có hơn 600 người ủng hộ đã đến để ủng hộ đội trong chiến thắng 2–1 trước Louletano.

Vào tháng 4 năm 2011, Wrexham đã ký một thỏa thuận tài trợ hai năm với nhà máy bia Greene King. Thỏa thuận này đã bị hủy vào tháng 9 sau khi Đại học Wrexham (khi đó được gọi là Đại học Glyndŵr) mua lại Racecourse, vì trường đại học này đã có một thỏa thuận độc quyền với một nhà máy bia khác.[94] Bắt đầu với trang phục mùa giải 2021–22, cổ sau của áo đấu có thêu số "1934", để tưởng nhớ đến Thảm họa Gresford.[95] Vào tháng 5 năm 2023, trang phục thi đấu của đội được công bố được tài trợ bởi Betty Buzz, một công ty đồ uống thuộc sở hữu của Blake Lively, cho mùa giải 2023–24.[96]

Cửa hàng câu lạc bộ Wrexham cũ

Nhà sản xuất trang phục và nhà tài trợ

[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn:[97]
Giai đoạn Thương hiệu Nhà tài trợ áo đấu (ngực) Nhà tài trợ áo đấu (lưng) Nhà tài trợ áo đấu (tay áo)
1984–85 Patrick Crosville Buses Không Không
1985–87 Winning Ways Marston's
1987–88 Hi-Tec Sports
1988–89 Admiral Sportswear
1989–91 Spall
1991–92 EN-S
1992–98 Wrexham Lager
1998–2002 Super League
2002–04 Vandanel Gap Personnel
2004–06 Just Go
2006–08 Lease Direct
2008–11 Umbro
2011–12 Puma Glyndŵr University
2012–14 Adidas
2014–15 Nike
2015–16 Adidas
2016–21 Macron Ifor Williams Trailers
2021–22 TikTok Expedia Aviation American Gin
2022–23 Vistaprint
2023–2024 United Airlines Vistaprint HP Inc.
2024–nay Meta Quest

Sân vận động

[sửa | sửa mã nguồn]
Racecourse Ground

Kể từ năm 1864, Wrexham đã chơi các trận đấu trên sân nhà tại Sân vận động Racecourse, nằm trên Mold Road, đây là con đường chính đi vào Wrexham; nó nằm đối diện với khu dân cư Maesgwyn, nằm giữa Đại học WrexhamGa đường sắt Wrexham General.[98] Vào tháng 8 năm 2011, Đại học Wrexham đã mua sân vận động và cơ sở đào tạo câu lạc bộ tại Gresford,[99] thêm tên vào sân vận động để trở thành Sân vận động Glyndŵr University Racecourse (Đại học Glyndŵr là tên của Đại học Wrexham vào thời điểm đó). Sau đó, vào năm 2016, Wrexham Supporters Trust đã ký hợp đồng thuê 99 năm trên mặt đất và tên được đổi lại thành Racecourse Ground.[100] Với sức chứa là 10.500 người, đây là một trong những sân vận động lớn nhất tại National League.[101] Vào tháng 6 năm 2022, Wrexham AFC đã mua lại quyền sở hữu vĩnh viễn Sân vận động Racecourse Ground từ trường đại học và đang có kế hoạch cải tạo sân vận động.[102] Sức chứa tối đa tính đến mùa giải 2024-25 là 13.341 người do Khán đài Kop tạm thời được mở rộng.[103]

Cổ động viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Khán đài Kop End và Mold Road đã bán hết vé

Vào tháng 8 năm 2011, Wrexham phải đối mặt với nguy cơ bị trục xuất khỏi Football Conference,[104] người hâm mộ đã tập hợp và quyên góp được 127.000 bảng Anh trong một ngày [105] để giúp trả tiền bảo lãnh, để đội bóng có thể đảm bảo thi đấu cho mùa giải sau. Một tháng sau, Wrexham Supporters' Trust (WST) đã tiếp quản việc điều hành hàng ngày của câu lạc bộ.[106] Quyền sở hữu của người hâm mộ đối với Wrexham cuối cùng đã được phê chuẩn vào ngày 12 tháng 12 năm 2011.[107] Tính đến tháng 5 năm 2015, WST có 4.129 thành viên và đồng sở hữu câu lạc bộ.[108] Cũng như thành phố Wrexham, các thị trấn và làng mạc xung quanh quận cũng tham gia hỗ trợ, như GwersylltRhos,[109][110] và thị trấn MoldFlintshire,[111] Buckley,[112] Holywell[113]Deeside. Đối với trận Chung kết FA Trophy 2013 các huấn luyện viên của cổ động viên Wrexham đến từ nhiều thị trấn Bắc Wales bao gồm; Bala, Bangor, Caernarfon, Colwyn Bay, Denbigh, Flint, Llandudno, Prestatyn, RhylRuthin.[114] Additionally, many Wrexham fans reside in Shropshire.[115]

Exiled supporters clubs can be found in South Wales,[116] ManchesterLondon.[117] Over the past 15 years, even as a lower-league side, Wrexham have been able to attract gates of 11,000+ for big games at the Racecourse.[118][119] Famous Wrexham fans include Canadian astronaut Chris Hadfield,[120] former Royal butler Paul Burrell,[121] actor and television presenter Tim Vincent,[122] actor Llŷr Ifans,[123] actor and comedian Ted Robbins,[124] Sweet guitarist Andy Scott,[125] Lloyd Roberts of rock band Neck Deep,[126] 2012 Olympian weightlifter Gareth Evans,[127] Sky Sports reporter Bryn Law,[128] Rugby World Cup referee Nigel Owens[129] and former footballers Neil Roberts,[130] Robbie Savage[131] and Mark Hughes.[132] The club also has a namesake club in Uganda, Wrexham F.C. Uganda, established in 2009, created by Welsh charity Teams4U.[133][134][135]

Kình địch

[sửa | sửa mã nguồn]

Wrexham có sự kình địch khốc liệt với Chester; hai đội trong derby xuyên biên giới.[136][137] Các câu lạc bộ chỉ cách nhau 10 dặm, nhưng lại nằm ở WalesAnh. Trận đấu đầu tiên được tổ chức vào năm 1888 với Wrexham giành chiến thắng 3–2 tại Faulkner Street, sân nhà cũ của Chester City; trận đấu gần đây nhất được tổ chức vào tháng 3 năm 2018 với Wrexham giành chiến thắng 2–0 tại Racecourse Ground.[138] Wrexham dẫn đầu cuộc cạnh tranh trực tiếp với 67 chiến thắng so với 50 của Chester. Các trận đấu giữa hai đội được xếp vào loại "có nguy cơ cao" [139] về khả năng gây mất trật tự và thường được chuyển sang giờ thi đấu sớm hơn với sự hiện diện của đông đảo cảnh sát để ngăn chặn tình trạng này,[140] mặc dù vẫn có những vụ bắt giữ vì nhiều hành vi phạm tội khác nhau liên quan đến cổ động viên của cả hai câu lạc bộ.[141][142][143]

Chester đối đầu với Wrexham năm 1954

Cựu cầu thủ Chester City Lee Dixon đã nói về trận derby "Tôi nói cho bạn biết, Chester đấu với Wrexham là một trận derby thực sự! Thật khó để so sánh nếu bạn chưa từng chơi ở mỗi trận nhưng có điều gì đó đặc biệt về bất kỳ trận derby nào ở bất kỳ cấp độ nào. Tôi đã chơi cho Chester đấu với Wrexham và trận đấu đó có thể trở nên dữ dội, nhưng nó không hề kém phần dữ dội so với Arsenal v Spurs".[144] Cựu tiền đạo của WalesLiverpool Ian Rush, người từng chơi cho cả hai câu lạc bộ, đã nói vào năm 2013 rằng trận derby xuyên biên giới giữa hai câu lạc bộ "căng thẳng nhất có thể" và "nó thực sự giống như trận đấu giữa xứ Wales và Anh, thật không thể tin được".[145]

Wrexham cũng có mối kình địch căng thẳng với Shrewsbury Town[146][147]Tranmere Rovers do vị trí địa lý gần nhau. Các trận đấu thường được chuyển sang giờ đá bóng sớm hơn, theo mong muốn của cảnh sát, để giảm thiểu khả năng xảy ra rắc rối như đã từng xảy ra giữa các câu lạc bộ trước đây. Năm 2003, 32 kẻ côn đồ đã bị bỏ tù sau trận đấu Tranmere v Wrexham tại Prenton Park[148] và rắc rối lại xuất hiện khi hai câu lạc bộ gặp nhau trong trận giao hữu năm 2013 tại Racecourse Ground.[149] Mặc dù không còn dữ dội như trước với sự khác biệt về hạng đấu, Crewe AlexandraPort Vale, cũng như các câu lạc bộ xứ Wales khác Cardiff City, Newport County,[150]Swansea City cũng được xem là các kình địch.[146][151][152][153] Wrexham được đại diện bởi một công ty hooligan được gọi là 'Front Line' đã tham gia vào tình trạng hỗn loạn lớn trên khắp nước Anh kể từ đầu những năm 1980.[154]

Những mùa giải gần đây cũng chứng kiến sự cạnh tranh nảy nở giữa cả Stockport CountyNotts County sau khi Wrexham cạnh tranh với Stockport để giành chức vô địch National League 2021-22, suýt chút nữa đã bỏ lỡ mặc dù có bước tiến vào cuối mùa giải khi Wrexham đánh bại Stockport trên sân nhà hai lần trong FA Trophy [155] and League,[156] trước khi cạnh tranh với Notts County cho chức vô địch mùa giải 2022-23 trong một mùa giải chứng kiến cả hai đội đều vượt qua mốc thế kỷ về cả số bàn thắng và số điểm với chiến thắng 3–2 vào Thứ Hai Phục Sinh năm 2023 cho Wrexham, nhờ pha cản phá trên chấm phạt đền của Ben Foster ở phút cuối cùng,[157] rất quan trọng khi Wrexham kết thúc với 4 điểm hơn Notts để giành chức vô địch và thăng hạng trở lại EFL. Mùa giải 2023-24 chứng kiến Wrexham giành thêm một lần thăng hạng nữa khi cán đích ở vị trí thứ 2, chỉ sau đội vô địch Stockport, (mặc dù Wrexham giành chiến thắng với tỷ số 2–1 trên sân nhà vào ngày cuối cùng của mùa giải [158]) để đảm bảo suất thăng hạng ở League One mùa giải 2024-25.

Wrex the Dragon

Linh vật

[sửa | sửa mã nguồn]

Wrex the Dragon là linh vật chính thức của đội Wrexham. Linh vật này cùng với biệt danh của đội là "The Dragons", được giới thiệu vào năm 2001–02 sau cuộc bỏ phiếu của người hâm mộ để giúp tăng tài trợ và quảng bá hình ảnh xứ Wales của câu lạc bộ đồng thời cung cấp một biệt danh độc đáo hơn. Bristol City, Swindon TownCheltenham Town cũng sử dụng biệt danh 'The Robins'. Wrex đôi khi được chủ sở hữu Rob McElhenney đóng vai.

Sân tập

[sửa | sửa mã nguồn]

Sân tập của Wrexham là Colliers Park được xây dựng có mục đích, ở lân cận Gresford.[159] Công trình hoàn thành được chính thức khánh thành vào tháng 6 năm 1997, với chi phí xây dựng là 750.000 bảng Anh..[159] Nơi đây được coi rộng rãi trong bóng đá Anh là một trong những sân tập tốt nhất bên ngoài giải đấu hàng đầu và là một trong những sân tập tốt nhất chưa từng được một đội bóng hàng đầu nào sử dụng.[160] Đội tuyển quốc gia Anh, Barcelona, Rangersđội tuyển quốc gia Wales đều đã sử dụng sân cho mục đích tập luyện.[160][161] Colliers Park tiếp tục được cải thiện; một đường chạy, cũng như các sân tập bốn mùa và một khán đài nhỏ đã được xây dựng kể từ khi cơ sở này mở cửa vào năm 1997. Colliers Park đã được Đại học Glyndwr mua lại như một phần trong giao dịch mua tài sản Racecourse Ground vào năm 2011.[162] Sân tập cũ của Wrexham đã có mục đích sử dụng mới sau khi Hiệp hội bóng đá xứ Wales đầu tư khoảng 4 triệu bảng Anh để biến nơi này thành Trung tâm phát triển quốc gia vào tháng 2 năm 2018.[22]

For the beginning of the 2016–17 season, Wrexham moved back to their former training ground at Stansty Park,[163] the home of Welsh National League side Lex Glyndwr, due to the use of Colliers Park becoming financially unsustainable for the club.[164] Wrexham did however retain the use of Colliers Park for Youth and Reserve fixtures. After one season of training at Stansty Park, Wrexham announced their move to a new training ground at 9 Acre field for the beginning of the 2017–18 season based near the city center[165] but also used Stansty Park in 2021.[166] Wrexham still occasionally train at Colliers Park since the takeover and use multiple venues.[167]

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 16 tháng 1 năm 2025[168]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
1 TM Anh Arthur Okonkwo
3 HV Anh Lewis Brunt
4 HV Anh Max Cleworth
5 HV Cộng hòa Ireland Eoghan O'Connell
6 HV Cộng hòa Ireland Tom O'Connor
7 TV Cộng hòa Ireland James McClean (đội trưởng)
8 TV Anh Andy Cannon
9 Anh Ollie Palmer
10 Wales Paul Mullin
11 Anh Jack Marriott
12 TV Anh George Evans
13 TM Anh Callum Burton
14 TV Cộng hòa Ireland Anthony Forde
15 TV Anh George Dobson
17 HV Anh Luke Bolton
19 HV Gambia Jacob Mendy
20 TV Anh Oliver Rathbone
21 TM Anh Mark Howard
Số VT Quốc gia Cầu thủ
22 Gambia Modou Faal
23 HV Anh Sebastian Revan
24 HV Anh Dan Scarr
25 HV Anh Will Boyle
26 Scotland Steven Fletcher
29 HV Anh Ryan Barnett
30 TV Scotland James Jones
32 TM Anh Brad Foster
33 TV Scotland Josh Adam
34 HV Anh Aaron James
37 TV Anh Matty James
38 TV Anh Elliot Lee
41 TM Anh Liam Hall
42 Anh Callum Edwards
43 Anh James Rainbird
44 HV Wales Harry Dean
45 TV Wales Harry Ashfield

Cho mượn

[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

Số VT Quốc gia Cầu thủ
18 Anh Sam Dalby (cho Dundee United mượn đến hết mùa giải)
27 Anh Jake Bickerstaff (cho Altrincham mượn đến hết mùa giải)
Số VT Quốc gia Cầu thủ
31 TM Cộng hòa Ireland Luke McNicholas (cho Rochdale mượn đến hết mùa giải)
TV Wales Jordan Davies (cho Grimsby Town mượn đến hết mùa giải)

Cựu cầu thủ nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với tất cả cầu thủ có bài viết trên Wikipedia, xem Cầu thủ Wrexham A.F.C..

Đối với danh sách đầy đủ các cầu thủ, xem Danh sách các cầu thủ Wrexham A.F.C. với 100+ trận, 25–99 trận1–24 trận.

Đại sảnh Danh vọng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau đây là các thành viên của Đại sảnh Danh vọng Wrexham A.F.C..[169] Entry is not restricted to players; anyone who has made a great contribution to the club in any capacity can be considered.

Tên
Anh Billy Ashcroft
Wales Tommy Bamford
Scotland Tommy Bannan
Anh Ken Barnes
Anh Gary Bennett
Wales Horace Blew
Cộng hòa Ireland Brian Carey
Anh Mark Carrington
Wales Ron Chaloner
WalesCarroll Clark
Anh Karl Connolly
Wales Dai Davies
Wales Gareth Davies
Trinidad và Tobago Carlos Edwards
Wales Johnny Edwards
Wales Mickey Evans
Wales Brian Flynn
Tên
Wales Alan Fox
Anh Bert Goode
Wales Arfon Griffiths
Wales Pryce Griffiths
Cộng hòa Ireland Phil Hardy
Wales Ron Hewitt
Anh Alf Jones
Wales Joey Jones
Anh Albert Kinsey
Trinidad và Tobago Dennis Lawrence
WalesBrian Lloyd
Wales Cliff Lloyd
Wales Andy Marriott
Wales Tommy Matthias
Anh Eddie May
Scotland Ally McGowan
Anh Sammy McMillan
Tên
Anh Dixie McNeil
Anh Andy Morrell
Anh John Neal
Wales Gareth Owen
Wales Ted Robinson
Anh Kevin Russell
Anh Bobby Shinton
Anh George Showell
Anh Denis Smith
Anh Ray Smith
Anh Mel Sutton
Wales Mickey Thomas
Anh Billy Tunnicliffe
Anh Graham Whittle
Wales Mike Williams
Wales Quỹ Cổ động viên Wrexham

Cầu thủ xuất sắc nhất năm

[sửa | sửa mã nguồn]

Kỉ lục của cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Số bàn thắng nhiều nhất trong một mùa giải ở mọi đấu trường: Tommy Bamford – 51 (1933–34)[170]
  • Số bàn thắng nhiều nhất ở trong một mùa giải vô địch: Tommy Bamford – 44 (1933–34, Division Three North)[170]
  • Số bàn thắng nhiều nhất ở giải vô địch: Tommy Bamford – 175[170]
  • Nhiều hat trick nhất: Tommy Bamford – 16[171]
  • Số bàn thắng nhiều nhất được ghi bởi một cầu thủ trong một trận đấu: Andy Morrell – 7 (đấu với Merthyr Tydfil, 16 tháng 2 năm 2000)[172]
  • Số lần ra sân nhiều nhất ở giải vô địch: 592 – Arfon Griffiths (1959–61, 1962–79)[173]
  • Số lần ra sân nhiều nhất: 713 - Arfon Griffiths (1959–61, 1962–79)
  • Số trận thi đấu cho đội tuyển quốc gia nhiều nhất: 146 - Daniel Bennett, Singapore
  • Số trận thi đấu cho đội tuyển quốc gia nhiều nhất khi còn thi đấu ở Wrexham: 49 – Dennis Lawrence, Trinidad & Tobago
  • Cầu thủ lớn tuổi nhất: Bobby Roberts – 43 tuổi, 88 ngày (đấu với Worcester City, 29 tháng 10 năm 1983)[174]
  • Cầu thủ trẻ nhất: Ken Roberts – 15 tuổi, 158 ngày (đấu với Bradford PA, 1 tháng 9 năm 1951)[175]

Đội dự bị

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1988 đến năm 1995, đội dự bị của Wrexham đã chơi ở các giải bóng đá ở xứ Wales.[176]

Vào ngày 2 tháng 8 năm 2022, Wrexham đã thông báo về sự tham gia Central League 2022–23.[177]

Mùa giải

[sửa | sửa mã nguồn]

Kỉ lục câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành tích cấp độ châu Âu

[sửa | sửa mã nguồn]

European Cup Winners' Cup:

Mùa giải Giải đấu Vòng đấu Đối thủ Sân nhà Sân khách Tổng tỉ số Tham khảo
1972–73 Cup Winners' Cup Vòng Một Thụy Sĩ FC Zürich 2–1 1–1 3–2 [189][190]
Vòng Hai Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Hajduk Split 3–1 0–2 3–3 [191][192]
1975–76 Cup Winners' Cup Vòng Một Thụy Điển Djurgården 2–1 1–1 3–2 [193][194]
Vòng Hai Ba Lan Stal Rzeszów 2–0 1–1 3–1 [195][196]
Tứ kết Bỉ Anderlecht 1–1 0–1 1–2 [197][198]
1978–79 Cup Winners' Cup Vòng Một Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Rijeka 2–0 0–3 2–3 [199][200]
1979–80 Cup Winners' Cup Vòng Một Cộng hòa Dân chủ Đức FC Magdeburg 3–2 2–5 5–7 [201][202]
1984–85 Cup Winners' Cup Vòng Một Bồ Đào Nha FC Porto 1–0 3–4 4–4 [203]
Vòng Hai Ý Roma 0–1 0–2 0–3 [204][205]
1986–87 Cup Winners' Cup Vòng Một Malta Żurrieq 4–0 3–0 7–0 [206][207]
Vòng Hai Tây Ban Nha Real Zaragoza 2–2 0–0 2–2 [208][209]
1990–91 Cup Winners' Cup Vòng Một Đan Mạch Lyngby 0–0 1–0 1–0 [210][211]
Vòng Hai Anh Manchester United 0–2 0–3 0–5 [212][213]
1995–96 Cup Winners' Cup Vòng Một România Petrolul Ploiești 0–0 0–1 0–1 [214][215]

Nhân viên câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 19 tháng 5 năm 2023[216]

Ban huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]
Huấn luyện viên hiện tại của Wrexham Phil Parkinson gia nhập câu lạc bộ vào năm 2021.
Vai trò Tên
Quản lý Anh Phil Parkinson
Trợ lý huấn luyện viên Anh Steve Parkin
Huấn luyện viên đội một Anh David Jones
Huấn luyện viên thủ môn Bắc Ireland Aidan Davison
Trưởng phòng khoa học thể thao, y học và hiệu suất Cộng hòa Ireland Kevin Mulholland
Nhà khoa học thể thao đội đầu tiên Anh Owen Jackson
Huấn luyện viên sức mạnh và thể lực của đội một Anh Richard Hill
Chuyên gia vật lý trị liệu đội một Anh Jonny Griffiths
Chuyên gia vật lý trị liệu thể thao đội một Wales Gemma Bamford
Anh Ryan Murray
Anh Ashley Painter
Nhà phân tích hiệu suất Anh Kyle Crutchley
Trưởng trinh sát Wales Andy Kidby
Huấn luyện viên học viện Anh Andy Lowe
Trang phục viên Wales Iwan Pugh-Jones
Quản lý trung tâm tài năng Wales Dan Nolan
Huấn luyện viên đội trẻ Wales Cledwyn Ashford
Chuyên gia phân tích đội trẻ Anh Aaron Bennett

Ban Giám đốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 19 tháng 5 năm 2023[217]
Vai trò Tên
Đồng chủ tịch Rob McElhenney
Ryan Reynolds
Giám đốc điều hành Humphrey Ker
Tổng giám đốc điều hành Michael Williamson
Giám đốc Kinh doanh và Truyền thông Rob Faulkner
Cố vấn cho Hội đồng quản trị Shaun Harvey
Peter Moore
Les Reed
Vai trò Tên
Chủ tịch Dixie McNeil
Phó chủ tịch Dave Bennett
Dave Griffiths
Spencer Harris
Gavin Jones
Rob Parry
Phil Salmon
Mark Williams

Lịch sử huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là danh sách huấn luyện viên của Wrexham AFC từ năm 1912 đến nay.[218]

Huấn luyện viên Năm
Anh Ted Robinson 1912–1924
Anh Charlie Hewitt 1924–1929
Anh Jack Baynes 1929–1931
Anh Ernest Blackburn 1932–1937
Scotland Jimmy Logan 1937–1938
Anh Tom Morgan 1938–1940
Anh Tom Williams 1940–1949
Scotland Les McDowall 1949–1950
Anh Peter Jackson 1950–1954
Wales Cliff Lloyd 1954–1957
Scotland John Love 1957–1959
Wales Cliff Lloyd 1959–1960
Wales Billy Morris 1960–1961
Anh Ken Barnes 1961–1965
Wales Billy Morris 1965
Anh Jack Rowley 1966–1967
Wales Alvan Williams 1967–1968
Anh John Neal 1968–1977
Wales Arfon Griffiths 1977–1981
Anh Mel Sutton 1981–1982
Scotland Bobby Roberts 1982–1985
 
Huấn luyện viên Năm
Anh Dixie McNeil 1985–1989
Wales Brian Flynn 1989–2001
Wales Joey Jones (tạm quyền) 2001
Anh Denis Smith 2001–2007
Cộng hòa Ireland Brian Carey 2007
Anh Brian Little 2007–2008
Wales Dean Saunders 2008–2011
Anh Andy Morrell 2011–2014
Anh Billy Barr (tạm quyền) 2014
Anh Kevin Wilkin 2014–2015
Anh Gary Mills 2015
Anh Dean Keates 2016–2018
Wales Carl Darlington (tạm quyền) 2018
Wales Andrew Davies (tạm quyền) 2018
Anh Sam Ricketts 2018
Anh Graham Barrow 2018–2019
Anh Bryan Hughes 2019
Wales Brian Flynn (tạm quyền) 2019
Anh Dean Keates 2019–2021
Anh Phil Parkinson 2021–nay
 

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Các danh hiệu của Wrexham AFC bao gồm:[219][220]

Giải vô địch

Cup

Văn học

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Champions 2022/23 – The Story Of A Record-Breaking Season, Wrexham A.F.C., 2023
  • The Giant Killers; a Wrexham fan's view viết bởi Richard Partington, Bridge Books, 2001
  • My Wrexham Story; The Inspirational Autobiography From The Beloved Football Hero viết bởi Paul Mullin, Cornerstone, 2023
  • The Racecourse Robins from Adams to Youds: a Who's who of Wrexham Association Football Club, 1921 to 1999 viết bởi Peter Jones and Gareth Davies, 1999
  • Tinseltown: Hollywood and the Beautiful Game - A Match Made In Wrexham viết bởi Ian Herbert, Headline, 2023
  • Wrexham; A Complete Record 1872 – 1992 viết bởi Peter Jones, Breedon Books, 1992
  • Wrexham AFC (Ultimate Football Heroes) viết bởi Paul Harrison, John Blake Publishing, 2024
  • Wrexham FC 1872–1950 viết bởi Peter Jones và Gareth Davies, History Press Limited, 2000
  • Wrexham FC 1950–2000 viết bởi Peter Jones và Gareth Davies, History Press Limited, 2001
  • Wrexham FC, An A–Z history viết bởi Dean Hayes, Sigma, 1998
  • Wrexham Football Club Pen-Portraits viết bởi Don Meredith, Don Meredith, 1997
  • Wrexham; The European era viết bởi Peter Jones, Desert Island Books, 2002
  • Wrexham; Through The Trap Door viết bởi Peter Jones, Desert Island Books, 2008

Đội bóng đóng vai trò quan trọng trong cuốn sách Twenty Two Foreigners in Funny Shorts năm 1994 của Peter Davies, được viết cho kỳ World Cup tại Hoa Kỳ. Cuốn sách này phác họa nỗ lực quảng bá đang diễn ra và cuối cùng là thành công.

  1. ^ Đáng chú ý là lần đầu tiên có ba hat-trick trong một trận đấu của Football League.[cần dẫn nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Randall, Liam. “Wrexham FC Fans To Vote To Accept 1864 Date Change”. Wrexham.com. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2012.
  2. ^ @Wrexham_AFC. “Your support this afternoon has been immense” (Tweet) – qua Twitter.
  3. ^ Randall, Liam. “Wrexham FC Fans To Vote To Accept 1864 Date Change”. Wrexham.com. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  4. ^ Jones, Peter. “Wrexham AFC History”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  5. ^ Lewis, Thomas (5 tháng 1 năm 2022). “We asked Wrexham fans who the club's main rivals were - here's what you said”. North Wales Live (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2023.
  6. ^ Bagnall, Steve (17 tháng 6 năm 2008). “Guinness cheers Racecourse with official record”. Daily Post Wales. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2008.
  7. ^ “Wrexham v Manchester United, 26 January 1957”. 11v11.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  8. ^ a b Scudder, Jake (26 tháng 9 năm 2022). “Wrexham AFC: The fastest growing club in the world”. Soccer Scene.com. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2023.
  9. ^ “Wrexham football club could be older than thought”. BBC News. 21 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2018.
  10. ^ “Wrexham FC Fans To Vote To Accept 1864 Date Change”. Wrexham.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2021.
  11. ^ “History”. Wrexhamafc.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.
  12. ^ “The History of Wales' Oldest Team”. Wrexham AFC. 19 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2010.
  13. ^ “1877 Welsh Cup Action”. Wrexham.gov.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2010.
  14. ^ Davies, Gareth; Garland, Ian (1991). Who's Who of Welsh International Soccer Players. Bridge Books. tr. 38. ISBN 1-872424-11-2.
  15. ^ “WELSH CUP FINAL 1882/83”. www.welshsoccerarchive.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020.
  16. ^ “Wrexham AFC – our story”. Wrexham AFC. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016. 1884 Football Association expels Wrexham for crowd trouble. A month later fans re-form the club as Wrexham Olympic.
  17. ^ “Wrexham AFC - Beginnings”. www.johnmills.wales. BeyondIt Consultancy Limited. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  18. ^ Davies, Gareth; Garland, Ian (1991). Who's Who of Welsh International Soccer Players. Bridge Books. tr. 125. ISBN 1-872424-11-2.
  19. ^ “Match details, Wrexham AFC archive”. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2023.
  20. ^ “West Ham United 0 Wrexham 1”. The Wrexham AFC Archive (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  21. ^ Pierson, Mark (27 tháng 1 năm 1997). “West Ham fear FA censure over pitch invasion”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2012.
  22. ^ a b “FAW & University unveil £4m investment to develop Colliers Park into National Development Centre”. Wrexham.com. 5 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  23. ^ “FAW Premier Cup Season 2000-01”. wfda.co.uk. Welsh Football Data Archive. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2013.
  24. ^ David Conn (5 tháng 4 năm 2006). “Wrexham's ordeal exposes home truths”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  25. ^ “Timeline: Crisis at Wrexham FC”. BBC News. 19 tháng 11 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2013.
  26. ^ David Conn (11 tháng 1 năm 2012). “Wrexham hoping FA Cup run can complete Dragons' rise from the ashes”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  27. ^ “Wrexham relegated”. The Times. 4 tháng 5 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  28. ^ “Southend United 0–2 Wrexham”. BBC Sport. 10 tháng 4 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  29. ^ Rob Griffiths (4 tháng 5 năm 2015). “Wrexham FC'S 2005 LDV Vans win”. Daily Post. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  30. ^ “League One Table & Standings”. Sky Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  31. ^ “Victory in battle for Wrexham FC”. North Wales Live. 21 tháng 10 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  32. ^ “Ex-chairman loses Racecourse bid”. BBC News. 14 tháng 3 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  33. ^ “Dickens in Wrexham buy-out”. North Wales Live. 30 tháng 4 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  34. ^ Rob Griffiths (21 tháng 4 năm 2016). “Throwback Thursday: Shrewsbury Town 0 Wrexham AFC 1”. Daily Post. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  35. ^ “Smith and Russell depart Wrexham”. BBC Sport. 11 tháng 1 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  36. ^ “Carey to lead Dragons for season”. BBC Sport. 12 tháng 1 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  37. ^ “League Two Table & Standings”. Sky Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  38. ^ “Boston lose Football League spot”. BBC Sport. 5 tháng 5 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  39. ^ “Brian Little appointed Wrexham boss”. Eurosport. 15 tháng 11 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  40. ^ “Wrexham stun Dons”. Eursport. 19 tháng 1 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2022.
  41. ^ “Wrexham go out of Football League”. BBC Sport. 22 tháng 4 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2022.
  42. ^ “Wrexham 5-0 Stevenage Borough”. BBC Sport. 9 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  43. ^ “Brian Little leaves Wrexham”. Wales Online. 27 tháng 9 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  44. ^ “Dean Saunders starts with a win at Wrexham FC”. Cheshire Live. 6 tháng 10 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  45. ^ “2008/09 Blue Square table”. footballsite. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  46. ^ “Blue Square 2009/10”. Sky Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  47. ^ “Wrexham's Supporters Trust backs rival takeover bid”. BBC News. 7 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  48. ^ “Welcome – Supporters Direct”. Supporters-direct.org. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  49. ^ “Wrexham FC winding-up petition over £200,000 HMRC debt”. BBC News. 15 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  50. ^ “Wrexham boss Andy Morrell focuses on Luton play-off wins”. BBC Sport. 2 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  51. ^ “Big three allowed back in Welsh Cup”. Wales Online. 21 tháng 4 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  52. ^ “What Wrexham FC can learn from the past seven Conference champions”. Daily Post. 9 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  53. ^ “Wrexham 2-1 Luton Town (2-3 on agg)”. BBC Sport. 4 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  54. ^ Aled Williams (24 tháng 3 năm 2013). “FA Trophy final: Grimsby Town 1-1 Wrexham (1-4 on pens)”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  55. ^ Dewi Hughes (5 tháng 5 năm 2013). “Newport County 2-0 Wrexham”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  56. ^ “Fans vote on changing Reds' name back to Wrexham AFC”. The Leader (bằng tiếng Anh). 11 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2024.
  57. ^ “Club”. The Wrexham Insider (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2024.
  58. ^ “Andy Morrell quits as Wrexham manager”. BBC Sport. 24 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  59. ^ “Kevin Wilkin is appointed new Wrexham manager”. ITV. 20 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  60. ^ “National League Table & Standings - 2013/14”. Sky Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  61. ^ “Wrexham 0-1 Eatleigh”. BBC Sport. 2 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2022.
  62. ^ “Wrexham AFC review of the year”. Leader Live. 1 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  63. ^ “Wrexham AFC”. EFS. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  64. ^ “DONE DEAL: Ryan Reynolds and Rob McElhenney acquire Wrexham AFC”. The Non-League Paper. 16 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2020.
  65. ^ “Ryan Reynolds and Rob McElhenney: Hollywood stars to take over Wrexham”. BBC Sport. 16 tháng 11 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2020.
  66. ^ Yin-Poole, Wesley (13 tháng 9 năm 2021). “The saga of Wrexham in FIFA 22 just took a weird turn”. Eurogamer. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2021.
  67. ^ Aled Williams (28 tháng 5 năm 2022). “Wrexham 4–5 Grimsby Town”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  68. ^ Aled Williams (22 tháng 5 năm 2022). “FA Trophy final: Wrexham 0–1 Bromley”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2022.
  69. ^ Martin, Kerry (19 tháng 5 năm 2021). “Ryan Reynolds and Rob McElhenney announce 'Welcome to Wrexham' football club documentary”. Yahoo! News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  70. ^ "Welcome To Wrexham" Disney+ UK/Ireland Release Date Announced” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2022.
  71. ^ “Welcome to Wrexham critic reviews”. metacritic.com. 23 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2022.
  72. ^ Portillo, Sam (22 tháng 4 năm 2023). “The Americans who've fallen in love with Wrexham amid Ryan Reynolds and Rob McElhenney's Hollywood story”. Wales Online. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2023.
  73. ^ Lewis, Aimee; Foster, Matt (23 tháng 4 năm 2023). “Wrexham secures promotion in front of jubilant owners Ryan Reynolds and Rob McElhenney”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2023.
  74. ^ “Are Wrexham now a bigger club than Celtic and Rangers?”. Nation.Cymru. 9 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2023.
  75. ^ Ruthven, Graham (8 tháng 3 năm 2023). “Can MLS grow its fanbase by 'doing a Wrexham'?”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2023.
  76. ^ “Interest in Wrexham-Sheff Utd FA Cup game peaks on ESPN”. World Soccer Talk. tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  77. ^ “Wrexham record points total in National League: Ryan Reynolds club claims record league haul”. www.sportingnews.com. 18 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
  78. ^ 'Honour of my life': Hollywood duo's emotional response after Wrexham AFC promoted”. Fox Sports. 23 tháng 4 năm 2023.
  79. ^ “Wrexham: Welsh side win promotion to EFL with Hollywood actors watching”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). 21 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  80. ^ “Wrexham's week as champions: Drunken dancing, late-night pizza and a Ferris wheel ride”. The Athletic (bằng tiếng Anh). 29 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2023.
  81. ^ Pablo Maurer and Felipe Cardenas (3 tháng 6 năm 2024). “Wrexham eliminated from $1 million TST in round of 16”. NYTimes. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2024.
  82. ^ Aled Williams (5 tháng 8 năm 2023). “Wrexham's EFL return spoiled by MK Dons”. BBC Sport. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2023.
  83. ^ Ryan Reynolds and Rob McElhenney Bought a U.K. Soccer Club in 2021. It Now Owes Them $11 Million. Robb Report, Abby Montanez, March 30, 2024
  84. ^ “Ryan Reynolds celebrates 'ride of our lives' as Wrexham gains promotion to English 3rd division”. AP News (bằng tiếng Anh). 13 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2024.
  85. ^ “Wrexham hit Rovers for six to seal promotion”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2024.
  86. ^ “Cannon goal gives Wrexham late win over Stockport”. BBC (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2024.
  87. ^ “An update from Academy Manager Andy Lowe”. WrexhamAfc (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2024.
  88. ^ “Wrexham Adds Club Necaxa Backers in Reciprocal Soccer Investment”. Sportico (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2024.
  89. ^ “ACADEMY NEWS Wrexham AFC granted EFL Category 3 Academy Licence”. WrexhamAfc (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2024.
  90. ^ “CLUB NEWS Wrexham AFC join European Club Association”. WrexhamAfc (bằng tiếng Anh). 5 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2024.
  91. ^ @Wrexham_AFC. “Goals from Max Cleworth, Jack Marriott and Steven Fletcher earned victory over Wycombe Wanderers in our 5000th recorded league match” (Tweet) – qua Twitter.
  92. ^ “CLUB STATEMENT Wrexham AFC welcome Allyn Family as Minority Investors”. WrexhamAfc (bằng tiếng Anh). 30 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2024.
  93. ^ Bagnall, Steve (13 tháng 9 năm 2014). “Wrexham FC's 150th anniversary shirt sells out - with some fans left disappointed”. Daily Post. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  94. ^ “Greene King brewery ends Wrexham FC sponsorship deal”. BBC News. 28 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  95. ^ “NEW SHIRT | CLUB DELIGHTED TO REVEAL NEW HOME SHIRT FOR 2021/22 SEASON”. wrexhamafc.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
  96. ^ “Blake Lively's company named as Wrexham's training kit sponsor for next season”. The Leader (bằng tiếng Anh). 24 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.
  97. ^ “Wrexham”. Football Historical Kits. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  98. ^ “The Racecourse Ground”. Wrexham AFC. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  99. ^ “Glyndwr University to buy Wrexham's Racecourse stadium”. BBC Sport. 3 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  100. ^ “Glyndwr University is pleased to confirm that the transfer of the Racecourse Ground stadium freehold to Wrexham AFC has been completed”. Glyndwr University. 29 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  101. ^ Naman Ramachandran (20 tháng 7 năm 2022). “Ryan Reynolds and Rob McElhenney's 'Welcome to Wrexham': Watch First Trailer for FX, Disney+ Welsh Soccer Club Series”. Yahoo Finance. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  102. ^ "Great day" as Wrexham Football Club acquires freehold of Racecourse Stadium from Glyndwr University”. Wrexham.com. 29 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2022.
  103. ^ @Wrexham_AFC. “Your support this afternoon has been immense” (Tweet) – qua Twitter.
  104. ^ “Leagues bosses in Wrexham talks”. BBC. 4 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2018.
  105. ^ “The UK's greatest football grounds”. Reader's Digest. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2020.
  106. ^ “Wrexham FC takeover deal is done”. BBC. 26 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2018.
  107. ^ “Supporters' Trust seals Wrexham takeover”. BBC. 12 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2018.
  108. ^ “Home”. Wst.org.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2014.
  109. ^ “Gwersyllt & District Reds Quiz Night Joy!”. Wrexham FC Unofficial Website. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  110. ^ “RHOS AND DISTRICT REDS Wrexham afc”. RHOS AND DISTRICT REDS Wrexham afc. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  111. ^ “Mold & District Reds – Home”. Moldreds.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  112. ^ “£800 Cheque Presentation”. buckleyreds.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  113. ^ “Wrexham Football Club - Supporters Clubs”. Onttss.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2018.
  114. ^ “Latest Club News”. wrexhamafc.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  115. ^ “News - Wrexham FC”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  116. ^ “News - Wrexham FC”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  117. ^ “Supporters Clubs”. Wrexhamafc.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  118. ^ “Wrexham v Middlesbrough, 11 December 1999”. 11v11.com. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  119. ^ “Boston lose Football League spot”. BBC. 5 tháng 5 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  120. ^ Nuttall, Andrew (11 tháng 10 năm 2020). “Out of this world support for Wrexham AFC from astronaut Chris Hadfield”. The Leader. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  121. ^ Gallagher, Claire (10 tháng 3 năm 2021). 'I'm a Celebrity' star and former Royal butler Paul Burrell back in Wrexham”. Leaderlive.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  122. ^ Jones, Matt; Jones, Robin (13 tháng 8 năm 2010). “TV's Tim tips Wrexham FC for promotion”. Leaderlive.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  123. ^ Welton, Blake (28 tháng 1 năm 2015). “14 celebrities you may or may not know support Wrexham FC”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  124. ^ Robinson, Phil (17 tháng 1 năm 2012). “Reds don't need me to wish them luck, says Flynn”. Leaderlive.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2014.
  125. ^ “Wrexham helped to Sweet success”. BBC News. 15 tháng 10 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  126. ^ Jones, Geraint. “Town's pop punk band to grace top UK festivals”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2015.
  127. ^ Post, North Wales Daily (12 tháng 6 năm 2012). “Weightlifting: Gareth Evans says he owes his Olympic call-up to Holyhead Weightlifting Club”. Dailypost.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  128. ^ “WST Contacts”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  129. ^ “Nigel Owens column: FIFA must stamp down on play-acting at Brazil 2014 or it could filter into rugby too”. Walesonline.co.uk. 11 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2014.
  130. ^ “News - Wrexham FC”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2014.
  131. ^ “Robbie Savage concerned by Wrexham's plight”. BBC. 28 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2018.
  132. ^ Norris, Tom (6 tháng 8 năm 2014). “Sparky backs Wrexham FC for glory”. The Leader. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2016.
  133. ^ “How Wrexham's fan base has spread to Uganda”. 29 tháng 1 năm 2023 – qua www.bbc.com.
  134. ^ Hemming, Jez (2 tháng 10 năm 2015). “Wrexham AFC has namesake team ... in Uganda!”. North Wales Live.
  135. ^ “Ugandan football team doing its bit to help put Wrexham AFC on the map”. The Leader. 22 tháng 1 năm 2023.
  136. ^ “Bordering On Kinship: The Incredible Story Of Chester And Wrexham”. Thedaisycutter.co.uk. 14 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  137. ^ “Wales v England, poor v "rich" – it's Wrexham vs Chester”. Fourfourtwo.com. 1 tháng 6 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  138. ^ “Wrexham 2-0 Chester”. BBC Sport. 11 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2024.
  139. ^ “Wrexham v Chester”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  140. ^ Porter, Gary (22 tháng 5 năm 2014). “Chester v Wrexham bubble match cost £40k to police”. Dailypost.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  141. ^ Lucia, Carmella de (11 tháng 9 năm 2013). “Nineteen now arrested after Wrexham v Chester game”. Chesterchronicle.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  142. ^ Traynor, Luke (6 tháng 3 năm 2014). “Stupidest football hooligan? Yob sprays graffiti at rival ground then puts posing pictures on FACEBOOK”. Mirror.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2018.
  143. ^ “Yob jailed after throwing smoke bombs at derby”. Newsnorthwales.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  144. ^ “Lee Dixon: With Arsenal's fragility, it's Adebayor's latest chance to”. The Independent. 1 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  145. ^ “Ian Rush compares Wrexham v Chester to Wales-England clash”. BBC Sport. 30 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2018.
  146. ^ a b “Rivalry Uncovered!” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2007.
  147. ^ “Unexpected Rivalries 2: Shrewsbury, Port Vale and Wrexham”. Thetwounfortunates.com. 25 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  148. ^ “Men jailed over football violence”. BBC News. 22 tháng 4 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  149. ^ Hilton, Nick (29 tháng 7 năm 2013). “Wrexham 2 Tranmere Rovers 0: Crowd trouble mars pre-season friendly”. lIverpoolecho.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  150. ^ “The Welsh derby between clubs who are miles apart”. BBC Sport.
  151. ^ Marsh, Jeff (29 tháng 5 năm 2021). “The Trouble with Taffies – Welsh hooligan”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  152. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  153. ^ “BEST OF TIMES, WORST OF TIMES - Wrexham AFC vs Newport County”. Wrexham AFC official site. 30 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2020.
  154. ^ Andy Mitten (16 tháng 11 năm 2020). “Wales v England, poor v "rich" – it's Wrexham vs Chester”. FourFourTwo. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2022.
  155. ^ “Wrexham 2-0 Stockport County”. BBC Sport. 1 tháng 4 năm 2022.
  156. ^ “Wrexham 3-0 Stockport County”. BBC Sport. 8 tháng 5 năm 2022.
  157. ^ “Wrexham 3-2 Notts County”. BBC Sport. 22 tháng 4 năm 2023.
  158. ^ “Wrexham 2-1 Stockport County”. BBC Sport. 27 tháng 4 năm 2024.
  159. ^ a b “Opening of Colliers Park is boost for football in Wrexham and North Wales”. the Leader. 23 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  160. ^ a b “Colliers Park development gets go ahead - reminder site was 'taken off' football club by 'unscrupulous developers'. Wrexham.com. 4 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  161. ^ Gary Porter (27 tháng 6 năm 2016). “Wrexham AFC quit Colliers Park training ground due to annual costs”. North Wales Live. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  162. ^ “Glyndwr University to buy Wrexham's Racecourse stadium”. BBC. 3 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
  163. ^ “Wrexham AFC set to begin pre-season training at Stansty Park”. the Leader. 27 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  164. ^ “Wrexham AFC quit Colliers Park training ground due to annual costs”. Dailypost.co.uk. 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  165. ^ “Wrexham Football Club To Use 9 Acre As Training Ground”. Wrexham.com. 12 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  166. ^ “Wrexham Football club 'can still use Nine Acre Field' despite Stansty training move”. Wrexham.com. 1 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  167. ^ Chris Burton (5 tháng 12 năm 2023). 'Isn't ideal' - Paul Mullin tells Wrexham owners Ryan Reynolds & Rob McElhenney exactly what they need to do to make a 'big step forward'. Goal.com. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  168. ^ “Men's First Team”. Wrexham A.F.C. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  169. ^ “Hall Of Fame”. Wrexham AFC. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  170. ^ a b c “Hall Of Fame”. Wrexhamafc.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  171. ^ “#WXMANORAK Review of 2021”. Wrexham AFC. 31 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  172. ^ “Wrexham FC Player Profiles: Andy Morrell”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  173. ^ “Wales have beaten Austria before and Wrexham AFC's Arfon Griffiths was the match-winner at The Racecourse”. Leader Live. 24 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  174. ^ “#WXMANORAK Wrexham v York City”. Wrexham AFC. 26 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  175. ^ “Ken Roberts: Wrexham's record youngest player dies aged 84”. BBC Sport. 6 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  176. ^ “WREXHAM RESERVES”. Football Club History Database. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2014.
  177. ^ “Club to enter Reserve team into Central League”. Wrexham A.F.C. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2022.
  178. ^ “Wrexham v Manchester United, 26 January 1957”. 11v11.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  179. ^ “Boxing Day Crackers”. Chester FC. 26 tháng 12 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  180. ^ “England historical attendance and performance - Wrexham AFC”. European Football Statistics. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  181. ^ Nick Harrison (3 tháng 3 năm 2021). “Jeff Stelling would not have liked this”. Leader Live. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  182. ^ “All Time Records”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  183. ^ “#WXMANORAK | Wrexham v Southend United”. www.wrexhamafc.co.uk (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  184. ^ “Wrexham overtaken in promotion race after loss”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). 7 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023.
  185. ^ Richard Williams (23 tháng 3 năm 2016). “Jamal Fyfield hails defence as Wrexham AFC attempt to equal club record at Grimsby Town”. the Leader. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2022.
  186. ^ Richard Williams (28 tháng 5 năm 2019). “Clean sheet record at Wrexham AFC is something Kevin Roberts is proud of”. Leader Live. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  187. ^ Richard Williams (22 tháng 7 năm 2018). “Wrexham AFC are in the money following Danny Ward's move to Leicester City”. the Leader. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2022.
  188. ^ “Wrexham's James McClean reveals how much Rob McElhenney and Ryan Reynolds actually paid for Mo Faal”. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
  189. ^ “Wrexham 2–1 FC Zurich”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  190. ^ “FC Zurich 1 Wrexham 1”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  191. ^ “Wrexham 3–1 Hadjuk Split”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  192. ^ “Hadjuk Split 2–0 Wrexham”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  193. ^ “Wrexham 2–1 Djurgarden”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  194. ^ “Djurdarden 1–1 Wrexham”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  195. ^ “Wrexham 2–0 Stal Rzeszów”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  196. ^ “Stal Rzeszów 1–1 Wrexham”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  197. ^ “Wrexham 1–1 Anderlecht”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  198. ^ “Anderlecht 1–0 Wrexham”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  199. ^ “Wrexham 2–0 Rijeka”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  200. ^ “Rijeka 3–0 Wrexham”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  201. ^ “Wrexham 3–2 Magdeburg”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  202. ^ “Magdeburg 2–5 Wrexham”. Wrexham AFC Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  203. ^ Barry Horne (3 tháng 10 năm 2016). “The night Wrexham AFC stunned Europe by beating Porto”. The Daily Post. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  204. ^ “AS Roma 2–0 Wrexham”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  205. ^ “Wrexham 0–1 AS Roma”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  206. ^ “Zurrieq 0–3 Wrexham”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  207. ^ “Wrexham 4–0 Zurrieq”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  208. ^ “Real Zaragoza 0–0 Wrexham”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  209. ^ “Wrexham 2–2 Real Zaragoza (AET)”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  210. ^ “Wrexham 0–0 Lyngby”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  211. ^ “Lyngby 0–1 Wrexham”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  212. ^ “Wrexham 0–2 Manchester United”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  213. ^ “Manchester United 3–0 Wrexham, Cup Winners Cup, 2nd Leg”. Mufc info. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  214. ^ “Petrolul Ploiesti 1 Wrexham 0 (1–0 on agg.)”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  215. ^ “Petrolul Ploiesti 1 Wrexham 0 (1–0 on agg.)”. Wrexham AFC archive. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2022.
  216. ^ “Who's Who”. Wrexham AFC. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  217. ^ “Who's Who”. Wrexham AFC. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2022.
  218. ^ “Wrexham Manager History”. Soccerbase. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2024.
  219. ^ “The oldest professional Football Club in Wales”. Wrexham AFC. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  220. ^ “Wrexham football club honours”. 11v11. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Wrexham F.C.

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[X-Men] Nhân vật Apocalypse - The First One
[X-Men] Nhân vật Apocalypse - The First One
Câu chuyện của Apocalypse (En Sabah Nur) bắt đầu khi anh ta sinh ra vào khoảng 5000 năm trước công nguyên ở Ai Cập
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn
Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ Federal Reserve hoạt động như thế nào?
Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ Federal Reserve hoạt động như thế nào?
Nền kinh tế thế giới đang ở trong giai đoạn mỏng manh nhất trong lịch sử hoạt động của mình
Các thuật ngữ thông dụng của dân nghiền anime
Các thuật ngữ thông dụng của dân nghiền anime
Khi thưởng thức một bộ Manga hay Anime hấp dẫn, hay khi tìm hiểu thông tin về chúng, có lẽ không ít lần bạn bắt gặp các thuật ngữ