Xian H-6 (Tây An H-6) | |
---|---|
Kiểu | Máy bay ném bom tầm trung chiến lược |
Hãng sản xuất | Tập đoàn Công nghiệp máy bay Tây An |
Chuyến bay đầu tiên | 1959[1] |
Tình trạng | Đang hoạt động |
Khách hàng chính | Không quân Trung Quốc Không quân Ai Cập Không quân Iraq |
Số lượng sản xuất | >150[1] |
Được phát triển từ | Tupolev Tu-16 |
Xian H-6 (轰-6; Hōng-6) (Tây An H-6) là một loại máy bay được sản xuất theo giấy phép sản xuất [1] của loại máy bay ném bom phản lực hai động cơ Tupolev Tu-16 của Liên Xô, nó được chế tạo cho Không quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa.
Việc chuyển giao những chiếc Tu-16 cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bắt đầu vào năm 1958, và tập đoàn Tập đoàn Công nghiệp máy bay Tây An đã ký một hợp đồng thỏa thuận với Liên Xô để nhận được giấy phép sản xuất loại máy bay này vào thập niên 1950. Chiếc Tu-16 đầu tiên do Trung Quốc sản xuất hay "H-6" trong cách gọi của người Trung Quốc, bay lần đầu tiên vào năm 1959. Việc sản xuất được thực hiện tại nhà máy tại Tây An, với ít nhất 150 chiếc đã được chế tạo trong thập niên 1990. Hiện này người ta ước lượng Trung Quốc còn sử dụng khoảng 120 chiếc[2].
Công việc sản xuất nội địa H-6 hoàn tất vào năm 1968[2] và những bằng chứng của sự huấn luyện ném bom được ghi nhận bởi những vệ tinh gián điệp của Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 8 năm 1971[2]. Vào tháng 3 năm 1972, Cơ quan Tình báo Trung ương đánh giá Trung Quốc có 32 máy bay đang hoạt động và 19 chiếc khác sẽ chuyển giao sau[2].
H-6 được thiết kế để mang 9 vũ khí hạt nhân trong cuộc thử nghiệm ở Lop Nur. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng trong công nghệ tên lửa đạn đạo, khả năng mang vũ khí hạt nhân của H-6 đã bị cắt giảm tầm quan trọng. Cơ quan Tình báo Trung ương nhận định vào năm 1976, H-6 đã được chuyển sang một vai trò nữa là ném bom quy ước đồng thời kiêm cả ném bom hạt nhân.
Cùng với máy bay ném bom rơi tự do H-6, các phiên bản khác cũng được chế tạo, bao gồm máy bay ném bom hạt nhân khác với tên gọi "H-6A", máy bay trinh sát "H-6B", máy bay ném bom quy ước "H-6C" và máy bay ném bom hạt nhân "H-6E" với những biện pháp đối phó cải tiến, và máy bay mang tên lửa chống tàu "H-6D". H-6D được đưa vào hoạt động vào đầu thập niên 1980 và mang được một tên lửa chống tàu C-601 (tên mã của NATO: "Silkworm", một tên lửa chống tàu được phóng trên không khác được phát triển dựa vào loại P-500 Permit của Liên Xô / NATO "Styx") dưới cánh. H-6D có các hệ thống hiện đại hóa và một vòm mở rộng mái che radar ở dưới mũi. H-6 cũng được sử dụng như một máy bay tiếp dầu và làm máy bay mẹ để phóng máy bay không người lái. Những chiếc H-6 được sản xuất sau cùng được tăng thêm độ cong ở đầu cánh máy bay.[1]
Nhiều máy bay H-6A và H-6C đã được nâng cấp vào những năm 1990 để trở thành tiêu chuẩn "H-6F", cải tiến chính là một hệ thống dẫn đường hiện đại, với một thiết bị vệ tinh định vị toàn cầu (hệ thống định vị toàn cầu), radar dẫn đường Dopplerm và hệ thống dẫn đường quán tính. Việc sản xuất mới được bắt đầu vào thập niên 1990, với phiên bản "H-6G", đây là một phiên bản chỉ huy trên không cho tên lửa hành trình phóng từ mặt đất; phiên bản "H-6H", mang theo được 2 tên lửa hành trình tấn công mặt đất; và hiện này là phiên bản "H-6M" mang tên lửa hành trình đầu đạn hạt nhân, nó có 4 giá treo để mang tên lửa hành trình và được trang bị một hệ thống quét địa hình. Rõ ràng những phiên bản này không có khả năng mang bom bên trong. và đa số hay tất cả vũ khí phòng thủ của chúng đều bị loại bỏ.
|date=
(trợ giúp)