Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưng vẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu các chú thích trong hàng. (tháng 5/2024) |
Xung đột Ả Rập – Israel | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Liên đoàn Ả Rập |
Israel |
||||||
Từng xảy ra chiến tranh với Israel |
Dải Gaza và Bờ Tây |
||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Được hỗ trợ bởi: |
Được hỗ trợ bởi: Dải Gaza (2006–)
Được hỗ trợ bởi: | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
|
| ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
≈22.570 người chết quân sự[3] ≈1.723 cái chết dân sự[4] ≈1.050 người dân SLA tử vong[5] | 91.105 tổng số người chết ở Ả Rập[6] | ||||||
Cả hai mặt: 74.000 quân nhân tử vong 18.000 cái chết dân sự (1945–1995)[7] |
Xung đột Ả Rập – Israel (tiếng Ả Rập: الصراع العربي الإسرائيلي, tiếng Hebrew: הסכסוך הישראלי ערבי) là những hành vi thù địch và căng thẳng chính trị đã kéo dài khoảng một thế kỷ. Nó liên quan tới sự thành lập Nhà nước Israel hiện đại, cũng như sự thành lập và độc lập của nhiều quốc gia Ả Rập trong cùng thời kỳ, và mối quan hệ giữa các nước Ả Rập và Israel (xem bài liên quan Xung đột Israel – Palestine).
Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).
Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[8] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[9]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóa và tôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.
Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương Tây và Ả Rập hay Thế giới Hồi giáo.[10][11] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[12] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.
Từ thế kỷ thứ 11 trước Công nguyên, nhà nước cổ đại của người Do Thái đã ra đời ở vùng đất Palestine. Vào thế kỷ thứ 8 TCN, các quốc gia cổ của người Do Thái bị tiêu diệt, người Do Thái tản ra tị nạn ở khắp châu Âu và Trung Đông. Vùng Palestine lần lượt nằm dưới sự cai trị của các Đế chế Assyria, Đế chế Babylon, Đế chế Ba Tư, Đế chế La Mã trong hàng thế kỷ sau đó, trước khi người Hồi giáo Ả Rập chiếm được khu vực này vào thế kỷ thứ 8. Palestine trở thành một phần của Đế chế Ottoman từ giữa thế kỷ 16.
Khởi nguồn của cuộc xung đột Ả Rập-Do Thái đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của các phong trào chủ nghĩa dân tộc Ả Rập vả chủ nghĩa phục quốc Do Thái, cả hai đều hướng tới mục tiêu giành được độc lập từ Đế chế Ottoman và thành lập một quốc gia có chủ quyền cho dân tộc của họ ở khu vực Trung Đông. Với sự gia tăng của chủ nghĩa bài Do Thái ở Châu Âu, một làn sóng di cư của người Do Thái tới Palestine đã diễn ra từ đầu những năm 1880. Sau thất bại của Đế chế Ottoman trong Thế chiến thứ nhất, Palestine đã trở thành một vùng lãnh thổ ủy trị của Anh vào năm 1918.
Amin al-Husseini, lãnh đạo của phong trào dân tộc Ả Rập tại Palestine, đã coi làn sóng nhập cư của người Do Thái vào Palestine là kẻ thù lớn nhất trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của người Ả Rập, ông ta đã khởi xướng các cuộc bạo loạn quy mô lớn chống lại người Do Thái vào đầu năm 1920 ở Jerusalem và năm 1921 tại Jaffa. Năm 1929, một loạt các cuộc bạo loạn chống Do Thái đã được các nhà lãnh đạo Ả Rập khởi xướng. Các cuộc bạo loạn này đã dẫn đến thương vong lớn của người Do Thái tại Hebron và Safed, buộc người Do Thái phải sơ tán khỏi Hebron và Gaza. Một cuộc bạo loạn đẫm máu của người Ả Rập đã diễn ra vào năm 1936 nhằm chống lại sự cai trị của Anh và chống lại làn sóng nhập cư của người Do Thái, song bị quân đội Anh dập tắt. Người Do Thái và người Ả Rập gây sức ép kêu gọi người Anh trao trả độc lập cho họ, cả hai cũng đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ vùng đất Palestine và không chấp nhận phân chia lãnh thổ.
Với sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai, tình hình căng thẳng ở Palestine đã phần nào dịu xuống, người Do Thái và người Ả Rập tạm thời hợp tác với nhau, đứng về phía phe Đồng minh. Tuy nhiên, một số người theo chủ nghĩa dân tộc Ả Rập cực đoan như al-Husseini có xu hướng hợp tác với Đức Quốc xã, ông ta đã tham gia thành lập một bộ máy tuyên truyền ủng hộ phát xít và chống Do Thái trên khắp thế giới Ả Rập. Vào cuối Thế chiến II, một làn sóng nhập cư mới vào Palestine của những người Do Thái sống sót sau cuộc thảm sát Holocaust ở châu Âu đã khiến cho mâu thuẫn giữa hai bên bùng phát trở lại. Người Anh đã thực hiện chính sách hạn chế người Do Thái nhập cư, khiến cho phong trào đấu tranh của người Do Thái chống lại người Anh ở Palestine trở nên quyết liệt. Áp lực quốc tế cũng gia tăng kêu gọi Anh trao trả độc lập cho người Do Thái.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 181 (II), thực hiện kế hoạch phân chia vùng đất Palestine thành một nhà nước của người Ả Rập và một nhà nước của người Do Thái, trong khi thành phố thánh Jerusalem được đặt dưới sự quản lý quốc tế. Người Do Thái nhanh chóng chấp nhận kế hoạch này, song người Ả Rập lại phản đối và đòi hỏi chủ quyền của họ đối với toàn bộ Palestine. Tuân thủ theo nghị quyết của Liên Hợp Quốc, người Do Thái đã chính thức tuyên bố thành lập nhà nước Israel vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, cả hai siêu cường là Hoa Kỳ và Liên Xô đều ngay lập tức công nhận nhà nước mới này chỉ sau chưa đầy một tiếng đồng hồ. Trước tình hình đó, các nước Ả Rập tuyên bố không công nhận nhà nước Israel và đem quân tấn công nước này, dẫn đến Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948. Cuộc chiến tranh này đã gây ra khoảng 15.000 thương vong và kết thúc với phần thắng thuộc về Israel.
Theo thỏa thuận ngừng bắn và đình chiến được ký kết giữa hai bên vào năm 1949, hầu hết các vùng lãnh thổ tại Palestine được phân chia cho người Ả Rập theo Nghị quyết 181 (II) đã bị Israel đánh chiếm, trong khi Jordan chiếm được Bờ Tây và Ai Cập chiếm lấy Dải Gaza. Đồng thời Israel cũng chiếm Tây Jerusalem, còn Đông Jerusalem tạm thời được đặt dưới quyền kiểm soát của Jordan. Bị mất toàn bộ lãnh thổ, một làn sóng tị nạn chiến tranh khổng lồ của người Ả Rập tại Palestine sang các quốc gia láng giềng đã bùng nổ trong thời gian này.
Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat.[13] Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[14]
Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[14][15] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[16]
Vào năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được thành lập bởi Yasser Arafat.
Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[17] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[18] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[19][20] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[21]
Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[22] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[18][20]. Kết thúc cuộc chiến, Israel đã chinh phục được Bờ Tây (bao gồm cả Đông Jerusalem), Dải Gaza, Cao nguyên Golan và Bán đảo Sinai, đánh dấu một thất bại nặng nề dành cho khối Ả Rập.
Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:
Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[24] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.
Sau cuộc chiến Sáu ngày, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) buộc phải tháo chạy sang Jordan, nơi vua Hussein đã cung cấp các căn cứ và nơi trú ẩn cho họ. Tuy vậy đến năm 1970, PLO bất ngờ phản bội Hussein và quay sang chống lại ông trong sự kiện đẫm máu được gọi là Tháng Chín đen tối.
Thất bại trước quân đội chính phủ Jordan, PLO lại phải di dời đến Nam Lebanon, nơi đây đã được PLO sử dụng làm căn cứ để tiến hành các cuộc tấn công khủng bố vào miền bắc Israel cũng như các chiến dịch không tặc trên toàn thế giới. Một trong những hành động khủng bố khét tiếng nhất của các nhóm phiến quân Palestine trong thời gian này là vụ bắt giữ và giết hại 11 vận động viên Israel tại Thế vận hội Olympic năm 1972. Bên cạnh đó, những phần tử khủng bố Palestine còn chịu trách nhiệm trong vô số các cuộc tấn công đáng chú ý khác, chẳng hạn như vụ không tặc chuyến bay Sabena 571 và vụ thảm sát ở sân bay Lod.
Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập bất ngờ tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự của Israel.[25][26] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, lo ngại về một cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[25][26]
Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[27]
Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[28]
Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.
Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[28]
Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.
Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amine Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[28] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [29]
Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho mối quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [28]
Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[30]
Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[27] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[31]
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên buzan
|source=
(trợ giúp)[liên kết hỏng]
|publishdate=
(trợ giúp)
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Encarta: Israel
Xem bài chính: Danh sách những đề xuất hoà bình Trung Đông