Chủ nghĩa bài Do Thái (tiếng Anh: Antisemitism; còn được đánh vần anti-semitism hoặc anti-Semitism)[a] một số tài liệu tiếng Việt dịch là Chống chủ nghĩa Xê-mít, là sự thù địch, thành kiến hoặc phân biệt đối xử đối với người Do Thái.[2][3][4] Quan điểm này là một hình thức phân biệt chủng tộc,[5][6] và những cá nhân chấp nhận nó được gọi là người bài Do Thái. Mặc dù chủ nghĩa bài Do Thái chủ yếu do những người không phải Do Thái gây ra, nhưng đôi khi nó có thể do người Do Thái tự gây ra trong một hiện tượng được gọi là "auto-antisemitism" (tức là người Do Thái tự ghét mình).[7] Về cơ bản, xu hướng bài Do Thái có thể được thúc đẩy bởi cảm giác tiêu cực đối với người Do Thái với tư cách một dân tộc hoặc bởi cảm giác tiêu cực đối với đối với Do Thái giáo. Trong trường hợp đầu tiên, thường được trình bày dưới dạng chủ nghĩa bài Do Thái về chủng tộc, sự thù địch của một người được thúc đẩy bởi niềm tin rằng người Do Thái tạo thành một chủng tộc riêng biệt với những đặc điểm hoặc đặc trưng cố hữu đáng ghê tởm hoặc kém hơn so với những đặc điểm hoặc đặc trưng ưa thích trong xã hội của người đó.[8] Trong trường hợp thứ hai, được gọi là chủ nghĩa bài Do Thái trong tôn giáo, sự thù địch của một người được thúc đẩy bởi nhận thức tôn giáo của họ về người Do Thái và đạo Do Thái, thường bao gồm các học thuyết về sự mê tín mong đợi hoặc yêu cầu người Do Thái quay lưng lại với đạo Do Thái và tuân theo tôn giáo tự coi mình là đức tin kế thừa của đạo Do Thái. — đây là chủ đề chung trong các tôn giáo Abraham khác.[9][10] Sự phát triển của chủ nghĩa bài Do Thái về chủng tộc và tôn giáo trong lịch sử đã được khuyến khích bởi chủ nghĩa chống Do Thái giáo (Anti-Judaism),[11][12] mặc dù bản thân khái niệm này khác với chủ nghĩa bài Do Thái (Antisemitism).[13]
Trong thời đương đại, một biểu hiện được gọi là "chủ nghĩa bài Do Thái mới" đã được xác định. Khái niệm này đề cập đến việc khai thác xung đột Ả Rập-Israel bởi một số lượng lớn những người chống Do Thái ẩn danh, những người có thể cố gắng đạt được sự thu hút hoặc tính hợp pháp cho những trò lừa bịp chống Do Thái của họ bằng cách miêu tả mình là người chỉ trích hành động của chính phủ Israel;[16] điều này khác với những người nhìn nhận các chính sách của chính phủ Israel một cách tiêu cực, vốn không mang tính chất chống Do Thái. Tương tự như vậy, vì Nhà nước Israel có dân số chủ yếu là người Do Thái, nên các luận điệu bài Do Thái thường được thể hiện bằng các biểu hiện của chủ nghĩa chống Israel, mặc dù điều này không phải lúc nào cũng đúng và những biểu hiện như vậy đôi khi có thể là một phần của phong trào bài Trung Đông rộng hơn.
Do từ gốc Semite, thuật ngữ này dễ bị xem là cách gọi sai bởi những người giải thích nó là đề cập đến lòng căm thù phân biệt chủng tộc nhắm vào tất cả "người Semit" (tức là những người nói ngôn ngữ Semit, chẳng hạn như người Ả Rập, người Assyria và người Do Thái, người Arame). Cách sử dụng này là sai lầm; từ ghép antisemitismus (nghĩa đen là 'antisemitism') lần đầu tiên được sử dụng trong bản in ở Đức vào năm 1879[17] như một "thuật ngữ nghe có vẻ khoa học" để chỉ Judenhass (nghĩa đen là 'Jew-hatred'),[17][18][19][20][21] và từ đó nó được dùng để chỉ tình cảm bài Do Thái.[17][22][23]
Tư tưởng bài Do Thái được thể hiện bởi Martin Luther (1483–1546), là nhà thần học Đức đã khởi xướng Phong trào Cải cách Đức, có tầm ảnh hưởng sâu rộng từ tôn giáo đến chính trị, kinh tế, giáo dục và ngôn ngữ, khiến cho ông trở thành một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Châu Âu. Tư tưởng của ông mang ý định bài xích Do Thái tuy không dữ dội như xu hướng đả kích Thiên chúa giáo của ông. Tuy thế, giáo hội Lutheran mang tên ông không mang tư tưởng bài Do Thái.
Tiến sĩ Karl Lueger (1844–1910), chính trị gia và thị trưởng (1897–1910) thủ đô Viên nước Áo, có những chính sách bài Do Thái và phân biệt chủng tộc. Lueger trở thành chính trị gia có ảnh hưởng mạnh nhất ở Áo lúc bấy giờ do tư cách có văn hóa và trình độ tri thức đáng kể. Những người chống đối ông, kể cả người Do Thái, phải công nhận ông là người tề chỉnh, có tinh thần hiệp sĩ, khoáng đạt và dễ dung thứ. Ngay cả nhà văn nổi tiếng Áo gốc Do Thái, Stefan Sweig, cũng có ý kiến thiện cảm về ông. Vì thế, có thể nói tư tưởng bài Do Thái của Lueger đạt mức độ tinh tế từ cảm quan của cá nhân, dễ thuyết phục người khác.
Người bị thuyết phục mạnh mẽ nhất là Adolf Hitler khi ông sống lang thang ở Wien thời còn trẻ. Chính Hitler nhìn nhận rằng tư tưởng bài xích người Do Thái manh nha từ những ngày ông sống ở Wien. Ông cho rằng người Do Thái là mầm mống của tệ nạn mại dâm và mua bán nô lệ da trắng. Ông bị ảnh hưởng sâu xa bởi sách báo ở Wien bài xích người Do Thái. Nhưng Hitler đưa tư tưởng bài Do Thái lên mức độ cao hơn khi cho rằng Lueger quá khoan dung và không thấy rõ vấn đề về chủng tộc của người Do Thái.
Tư tưởng bài Do Thái được Đảng Công nhân Đức, tiền thân của Đảng Quốc xã, thể hiện một cách chính thức trong cương lĩnh của đảng công bố ngày 24 tháng 2 năm 1920. Sau này, bản cương lĩnh trở thành chương trình hành động chính thức của Đảng Quốc xã.
Trong quyển Mein Kampf, tư tưởng bài Do Thái của Hitler được trình bày rất rõ nét. Ông ngược dòng lịch sử để đánh giá cao sự vinh quang của Đế quốc Đức do Otto von Bismarck thiết lập năm 1871, nhưng phê phán rằng một trong những lý do khiến cho đế quốc này sụp đổ là việc dung dưỡng người Do Thái.
Tuy thế, Hitler không phải là người đơn độc bài Do Thái một cách mù quáng. Nhiều nhân vật chủ chốt lúc đầu của Đảng Lao động Đức đã sẵn có tư tưởng này từ khi Hitler còn là nhân vật vô danh. Ví dụ điển hình là Dietrich Eckart, thường được xem là nhà sáng lập tinh thần của Quốc xã, cũng mang tư tưởng này ngay từ đầu. Tư tưởng bài Do Thái trở nên mù quáng và hàm hồ hơn khi trung ương đảng Lao động Đức, vì muốn tranh giành quyền lực với Hitler, năm 1921 đã kết án Hitler là người thân Do Thái.
Vào thời kỳ này, nước Đức đã rộ lên phong trào bài Do Thái, điển hình là vào năm 1920, đảng Lao động Đức mua lại một tờ báo chuyên bài xích Do Thái và biến nó thành tờ báo tiếng nói chính thức của đảng. Vì thế, tư tưởng có tính cộng hưởng: xu hướng bài Do Thái của nhiều người Đức được Hitler lợi dụng khai thác, và đến phiên Hitler nhờ tài hùng biện lôi kéo thêm nhiều người Đức đi theo đường lối này.
Suốt đời, Hitler vẫn là người bài xích Do Thái mù quáng và quá khích. Di chúc của ông, viết ra vài giờ trước khi chết, chứa đựng lời công kích cuối cùng đối với người Do Thái, cho là họ có trách nhiệm đối với cuộc chiến mà ông phát động.
^“Antisemitism in History: Racial Antisemitism, 1875–1945”. United States Holocaust Memorial Museum (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2023. These new 'antisemites,' as they called themselves, drew upon older stereotypes to maintain that the Jews behaved the way they did—and would not change—because of innate racial qualities inherited from the dawn of time. Drawing as well upon the pseudoscience of racial eugenics, they argued that the Jews spread their so-called pernicious influence to weaken nations in Central Europe not only by political, economic, and media methods, but also literally by 'polluting' so-called pure Aryan blood by intermarriage and sexual relations with non-Jews. They argued that Jewish 'racial intermixing,' by 'contaminating' and weakening the host nations, served as part of a conscious Jewish plan for world domination.
^Lewis, Bernard. “Semites and Anti-Semites”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2018.. Extract from Islam in History: Ideas, Men and Events in the Middle East, The Library Press, 1973.
Frank, Daniel H.; Leaman, Oliver (2003). The Cambridge companion to medieval Jewish philosophy. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN0-521-65574-9.
Laurens, Henry (2002). La Question de Palestine. II. Fayard.
Majer, Diemut (2014). "Non-Germans" Under The Third Reich: The Nazi Judicial and Administrative System in Germany and Occupied Eastern Europe, with Special Regard to Occupied Poland, 1939–1945. Texas Tech University Press. ISBN978-0896728370.
Perry, Marvin; Schweitzer, Frederick M. (2005). Antisemitism: Myth and Hate from Antiquity to the Present. New York, NY: Palgrave. ISBN978-0-312-16561-1.
Poliakov, Léon. The History of Anti-Semitism, Volume 1: From the Time of Christ to the Court Jews, University of Pennsylvania Press: 2003
Poliakov, Léon. The History of Anti-Semitism, Volume 2: From Mohammad to the Marranos, University of Pennsylvania Press: 2003
Poliakov, Léon. The History of Anti-Semitism, Volume 3: From Voltaire to Wagner, University of Pennsylvania Press: 2003
Poliakov, Léon. The History of Anti-Semitism, Volume 4: Suicidal Europe 1870–1933, University of Pennsylvania Press: 2003
Ury, Scott (2018). “Strange Bedfellows? Anti-Semitism, Zionism, and the Fate of "the Jews"”. The American Historical Review. 123 (4): 1151–1171. doi:10.1093/ahr/rhy030.
Brustein, William I., and Ryan D. King. "Anti-semitism in Europe before the Holocaust." International Political Science Review 25.1 (2004): 35–53. onlineLưu trữ 7 tháng 4 2022 tại Wayback Machine
Carr, Steven Alan. Hollywood and anti-Semitism: A cultural history up to World War II, Cambridge University Press 2001.
Gerber, Jane S. (1986). "Anti-Semitism and the Muslim World". In History and Hate: The Dimensions of Anti-Semitism, ed. David Berger. Jewish Publications Society. ISBN0-8276-0267-7
Goldberg, Sol; Ury, Scott; Weiser, Kalman (eds.). Key Concepts in the Study of Antisemitism (Palgrave Macmillan, 2021) online reviewLưu trữ 5 tháng 10 2021 tại Wayback Machine
Selzer, Michael (ed.). "Kike!" : A Documentary History of Anti-Semitism in America, New York 1972.
Small, Charles Asher ed. The Yale Papers: Antisemitism In Comparative Perspective (Institute For the Study of Global Antisemitism and Policy, 2015). onlineLưu trữ 3 tháng 10 2021 tại Wayback Machine, scholarly studies.
Stav, Arieh (1999). Peace: The Arabian Caricature – A Study of Anti-semitic Imagery. Gefen Publishing House. ISBN965-229-215-X.
Steinweis, Alan E. Studying the Jew: Scholarly Antisemitism in Nazi Germany. Harvard University Press, 2006. ISBN0-674-02205-X.
Stillman, Norman. The Jews of Arab Lands: A History and Source Book. (Philadelphia: Jewish Publication Society of America. 1979). ISBN0-8276-0198-0
Stillman, N.A. (2006). "Yahud". Encyclopaedia of Islam. Eds.: P.J. Bearman, Th. Bianquis, C.E. Bosworth, E. van Donzel and W.P. Heinrichs. Brill. Brill Online
Tausch, Arno (2018). “The Effects of 'Nostra Aetate:' Comparative Analyses of Catholic Antisemitism More Than Five Decades after the Second Vatican Council”. SSRN3098079.
Tausch, Arno (14 tháng 1 năm 2015). “The New Global Antisemitism: Implications from the Recent ADL-100 Data”. Middle East Review of International Affairs. 18 (3 (Fall 2014)). doi:10.2139/ssrn.2549654. S2CID59022284. SSRN2549654.
Buddha là đại diện của Nhân loại trong vòng thứ sáu của Ragnarok, đối đầu với Zerofuku, và sau đó là Hajun, mặc dù ban đầu được liệt kê là đại diện cho các vị thần.