Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Yên Đồng
|
||
---|---|---|
Xã | ||
Xã Yên Đồng | ||
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | |
Tỉnh | Nam Định | |
Huyện | Ý Yên | |
Thành lập | 1959 | |
Địa lý | ||
Tọa độ: 20°15′22″B 106°4′9″Đ / 20,25611°B 106,06917°Đ | ||
| ||
Diện tích | 10,1 km² | |
Dân số (2010) | ||
Tổng cộng | 13.200 người | |
Mật độ | 1.307 người/km² | |
Dân tộc | Kinh | |
Khác | ||
Mã hành chính | 13879[1] | |
Mã bưu chính | 0350 | |
Yên Đồng là một xã thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Xã thuộc về hạ lưu sông Hồng, nằm ở phía nam huyện Ý Yên; phía Bắc giáp với xã Yên Thắng; phía Tây nam giáp xã Yên Trị; phía Nam giáp sông Đáy; phía Đông giáp xã Yên Nhân, phía Tây giáp sông Sắt, là phân giới tự nhiên với xã Yên Khang.
Xã được phân thành 8 thôn và 35 xóm. Các thôn là Khang Giang (làng Tràn), Tiến Thắng, Nam Đồng, Cốc Dương, La Ngạn, Đại An và An Trung.
Vùng đất Yên Đồng được cho là có lịch sử lâu đời. Căn cứ vào những phát hiện các lớp sú vẹt dưới các lớp vỏ sò vỏ hến, các nhà nghiên cứu dự đoán vùng đất Yên Đồng xưa thuộc vùng biển nông, sau được phù sa sông Đáy lắng đọng bồi đắp nâng cao dần thành đồng ruộng, cửa biển Đại Ác xưa (nay là cửa biển Độc Bộ) cũng đã lùi xa mấy chục km. Theo truyền ngôn thì ông Trần Xuân Hằng, người Tiên Du là người đầu tiên về đây lập ấp nên làng mới có tên gọi chệch là Trần Xá xã, tên Nôm gọi là làng Tràn.
Thời Lý - Trần, vùng đất Yên Đồng nay tương ứng với 5 phường: Trần Xá, Cốc Dương, Lê Lợi, Đồi Trung, An Hạ, thuộc huyện Đại An, trấn Sơn Nam. Đến thời Hậu Lê, vùng này gồm 5 xã: Vỉ Nhuế (xã Vỉ Nhuế bao gồm 5 thôn: Trần Xá, Quảng Nạp, Nhuế Duệ, Tịch Nhi, Đáy. Đến năm Minh Mạng thứ 10 (1831), xã Vỉ Nhuế được đổi thành tổng Vỉ Nhuế.), Cốc Dương; An Trung, La Ngạn (do Lê Lợi lên làm vua nên xã Lê Lợi tránh tên húy đổi là xã La Ngạn) và An Hạ thuộc huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng.
Từ 1945 đến 1959, vùng này có tên gọi là xã Đại Đồng, thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Đến năm 1959, xã có tên là Yên Đồng, thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.[1] Lưu trữ 2015-07-13 tại Wayback Machine
Xưa kia ngoài nông nghiệp là nghề chính thì người dân Yên Đồng còn có thêm một số nghề thủ công như nghề trồng cói dệt chiếu gon ở làng Gon, nghề trồng bông kéo sợi dệt vải ở làng Gon, làng Tràn. Ngoài ra còn có nghề trồng dâu nuôi tằm, nghề đan lát tre, nứa. Từ xa xưa Yên Đồng đã là một vùng quê có sự mở cửa thông thương buôn bán với bên ngoài. Nơi đây có hai bến đò là đò Vọng và đò Vọng Trung, có ba chợ để trao đổi hàng hóa là chợ Đồi, chợ Nấp và chợ Vọng. Trong đó chợ Đồi xưa là chợ lớn nhất vùng họp ở bến sông Đồi, một tháng họp tới chín phiên.
Hiện nay, nông nghiệp vẫn là nghề chính của Yên Đồng. Ngoài ra còn có thêm một số nghề phụ như máy may quần áo, găng tay, mũ, thêu xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Một số gia đình có mở cửa hàng cung cấp các dịch vụ thương mại cho bà con. Như vậy, có thể thấy Yên Đồng là một vùng quê lâu đời có bề dày lịch sử. Đây là một làng quê nông nghiệp điển hình, đồng thời cũng là một làng quê có sự mở mang thông thương chợ búa "trên bến dưới thuyền"…
bao gồm toàn bộ làng Tràn. (tên chữ là Trần Xá)
Tên gọi Khang Giang ám chỉ con sông nhỏ của xóm Khang - xóm đầu tiên hình thành ngôi làng, hiện nay không còn dấu tích của con sông này, về sau xóm này phát triển thành làng Trần Xá, tên Nôm là làng Tràn.
Thuở sơ khai thì làng là một bãi bồi ven biển. Sau đó, có một số người sinh sống bằng nghề chài lưới cư trú ở đây và có tên gọi là xóm Khang. Người đầu tiên về đây lập ấp, phát triển điền trang trồng trọt là ông Trần Xuân Hằng người Tiên Du nên làng mới có tên gọi chệch là Trần Xá (làng Tràn).
- Đình Tràn thờ phụng hai ông: ông Nguyễn Văn Bình được vua sắc phong là Đông Nha đại vương và ông Nguyễn Văn Định là Tây Nha đại vương. (Hai ông là người sinh ra tại làng Trần Xá (năm Canh Thìn 1040) trong một gia đình làm nghề chài lưới, cha là Nguyễn Văn Thụy, mẹ là Lý Thị An. Lớn lên hai ông dựng cờ khởi nghĩa chiêu tập quân giết các tên quan gian ác Hoàng Xá (Yên Nhân ngày nay) và Vọng Doanh (Yên Quang ngày nay). Năm 1073 được nhà Lý chiêu hàng giao cho chức chánh phó trấn thủ Nghệ An cùng với Lý Đạo Thành. Sau này các ông có công giúp Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành và đánh quân nhà Tống. Ông Nguyễn Văn Bình sau khi về quê có công giúp dân sửa sang đền chùa, đắp đường khơi mương. Sau khi mất ông Nguyễn Văn Bình được vua sắc phong là Đông Nha đại vương còn ông Nguyễn Văn Định là Tây Nha đại vương, được dân thờ phụng ở đình Tràn.).
bao gồm toàn bộ làng Nấp (tên chữ là Quảng Nạp).
Thôn Tiến Thắng xưa là một xóm của làng Trần Xá, đến thời nhà Hậu Lê được tách ra thành một thôn mới đổi tên gọi là thôn Quảng Nạp - tên Nôm là làng Nấp.
Trước khi đạo Thiên chúa du nhập vào làng Nấp thì người dân làng Nấp theo Đạo Phật và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ông bà cha mẹ, vì vậy làng Nấp cũng có đình thờ Thành hoàng làng và một ngôi chùa (nằm ở xóm Bắc) để cho nhân dân trong làng sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa cộng đồng nhưng đã bị phá dỡ giữa thế kỉ 20. ngôi chùa đã bị phá 51năm nay và đến đến năm 2018 nhân dân thôn tiến thắng đã góp phần xây dựng lại ngôi chùa có tên là kim quang cổ tự. nơi thờ các anh hùng liệt sĩ và thần hoàng làng
hay còn gọi là đức đại vương mai hắc đế.
Bao gồm các làng: làng Gon (Tịch Nhi), làng Vọng Trung (Đáy), và làng Nhế (Nhuế Duệ) được hình thành vào đầu thế kỉ thứ 14 do công lao của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư khai sáng.
Thôn Nam Đồng có ngôi Phủ Chùa Nhuế, chùa Đáy cổ (đã bị UBND xã phá dỡ vào những năm 1970). Sau này được nhân dân, cán bộ UBND xã Yên Đồng và Bà Trần Thị Vân - thủ nhang Phủ Quảng Cung xây dựng lại bên bờ sông Đáy năm 2008; làng Vọng có đình Vọng Trung (Đình Vọng thờ tự Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư); làng Nhuế có đình Nhuế Duệ (thờ phụng cụ Nguyễn Công Bạch một nhân thần người địa phương), làng Gon có đình Gon (thờ phụng các ông Bùi Đại Liệu, Lê Vĩnh Lộc, Nguyễn Hưng).
Hiện nay, chùa Đáy và đình Đáy đang được xây dựng lại nằm trong khu di tích đền Mẫu Thoải (Đền Thủy Phủ)
bao gồm các xóm: xóm Chùa, xóm Tây, xóm Đông và xóm Nam.
Thôn có chùa Cốc Dương. là thôn trồng rau màu nhiều nhất toàn xã,đất đai màu mỡ Từ lâu nơi đây đã có truyền thống hiếu học, tỉ lệ tiến học lên đại học, cao đẳng luôn đạt trên 90% Hàng năm làng Cốc Dương có tổ chức lễ rước thánh khai xuân kì thọ vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm
bao gồm các xóm: xóm Thượng, xóm Tây, xóm Đình, xóm Trung, xóm Đông, và xóm Dinh, làng có chùa Thượng và chùa Trung, Đền Thượng, Đền Trung.
Người La Ngạn vốn gốc từ xưa theo Nho giáo. Đạo Nho ở ta là kết hợp cả với Phật giáo (thờ phật ở chùa), Lão giáo (thầy cúng thờ Thái Thượng Lão quân) và phong tục thờ Mẫu (thờ ông Hoàng, bà Chúa ở phủ). Khoảng nửa sau thế kỷ 19, Kitô giáo đã du nhập vào La Ngạn đến nay có chín, mười gia đình tín đồ với một nhà thờ họ lẻ ở giữa xóm Trung. Người La Ngạn có một phẩm chất thông minh và hiếu học, nhiều thế hệ khoa danh với bảng vàng bia đá còn lưu lại đến bây giờ.
bao gồm: làng An Hạ (trước kia là làng Nam Giáp), làng Đồi và làng Đại Duyệt.
Thôn Đại An có Phủ Đồi, chùa Đồi và chùa An Hạ.
Hiện ở khu vực thôn Đại An còn lại dấu tích "Điện kinh thiên", theo truyền lại lúc đầu là nơi thờ Khổng Tử, sau này đổi là miếu Báo Vua, dân gọi là "Ngõ Vua", có cây cối um tùm. Cũng trong khu vực này người ta đã đào được nhiều cổ vật như đĩa, bát, vại, nồi, lọ tiền xu… không rõ niên đại. Rất có thể đây là những dấu tích liên quan đến việc xưa kia nhà Trần lập điền trang ở đây. Ngoài ra, sự có mặt của "Phúc Lâm Tự" - một ngôi chùa cổ ở Yên Đồng tương truyền còn liên quan đến một vị tôn thất Nhà Lý. Truyện kể rằng thấy địa thế làng Đồi đẹp vị tôn thất này đã định lập thái ấp. Nhưng sau một đêm thấy dân phu không đào đủ 100 cái giếng, cho rằng lòng trời không thuận nên chuyển sang xây ngôi chùa đặt tên là "Phúc Lâm Tự".
Lễ hội phủ Đồi diễn ra vào ngày 01/03 âm lịch
bao gồm các xóm: An Thịnh, An Phú và An Trung trên.
Thôn An Trung có chùa An Trung, Đình An Trung, (hội làng An Trung diễn ra vào ngày 23/09 âm lịch hàng năm)
1. Trường tiểu học A Yên Đồng
2. Trường tiểu học B Yên Đồng.
Tên gọi đầu tiên là Trường Phổ thông cơ sở cấp I, II Yên Đồng B. Trường được xây dựng năm 1976 trên khu đất phía Tây của Chùa Tràn (Khu đất này trước đây là cổng vào nhà chùa tới gác chuông chùa). Trường có nhiệm vụ nhận giáo dục từ lớp 1 đến lớp 8 bậc phổ thông cơ sở cho học sinh 5 thôn Vỉ Nhuế (Tràn, Nấp, Vọng, Nhuế, Gon) và thôn Cốc Dương.
Năm 1990, do đổi mới bậc học phổ thông, Trường được chuyển đổi chức năng và nhiệm vụ nên Trường được đổi tên mới là Trường Tiểu học B xã Yên Đồng. Trường Tiểu học B xã Yên Đồng có nhiệm vụ giáo dục bậc tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 cho học sinh của các thôn Khang Giang, Tiến Thắng, Nam Đồng và Cốc Dương.
3. Trường Trung học cơ sở Yên Đồng.
4. Trường Trung học phổ thông Đại An.
1. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết XDĐSVH ở khu dân cư" và 5 năm thực hiện cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", 1995 -2005, Ban chỉ đạo cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư xã Yên Đồng", 2005.
2. Bản báo cáo tổng kết về công tác văn hóa thông tin & thể thao xã Yên Đồng, Ban Văn hóa thông tin Yên Đồng, 2009.
3. Nguyễn Văn Bắc trong Góp phần tìm hiểu lịch sử phủ Quảng Cung thôn Vỉ Nhuế- xã Yên Đồng – huyện Ý Yên – tỉnh Nam Định, Khóa luận tốt nghiệp đại học, chuyên ngành Lịch sử văn hóa, khoa Lịch sử, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, 2004.
4. Cát thiên tam thế thực lục, Hoàng Nam Duy Tân, Quý Sửu trọng xuân phụng thuyên Quảng Cung Tiên Chúa linh từ tàng bản, Bản phiên dịch do cụ Đỗ Huy Vinh thực hiện.
5. Di tích lịch sử văn hóa phủ Quảng cung Vỉ Nhuế, Ban quản lý di tích phủ Quảng Cung, 2007.
6. Địa chí Nam Định, Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003.
7. Kinh thánh Mẫu Sòng Sơn, nhà in Thanh Bình, 1952.
8. Không gian văn hóa xã hội với sự hình thành tục thờ Mẫu ở Phủ Nấp xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định [2] Lưu trữ 2015-07-13 tại Wayback Machine