HMS Bligh (K467)

Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS (DE-76)
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 10 tháng 5, 1943
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc
Đổi tên Liddle, 27 tháng 5, 1943
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 17 tháng 10, 1945
Số phận Bán để tháo dỡ, 13 tháng 6, 1946
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Bligh (K467)
Đặt tên theo William Bligh
Hạ thủy 31 tháng 7, 1943
Nhập biên chế 23 tháng 10, 1943
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 17 tháng 10, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Bligh (K467) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Liddle (DE-76), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Phó đô đốc William Bligh (1754-1817), hạm trưởng chiếc HMS Director (1784) và đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ.[1][2] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[3][4]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[5] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [3][4] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[5]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[5][6] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[5]

Con tàu được đặt lườn như là chiếc DE-76 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 10 tháng 5, 1943,[1][7] được đặt tên Liddle vào ngày 27 tháng 5[8] và được hạ thủy vào ngày 31 tháng 7, 1943.[7][9] Nó được chuyển giao cho Anh Quốc,[1][8][Note 1] và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Bligh (K467) vào ngày 23 tháng 10, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Robert Edwin Blyth.[7][9]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Bligh đã hoạt động thuần túy cùng Đội hộ tống 5 trong suốt cuộc chiến tranh khi tham gia hộ tống các Đoàn tàu vận tải Bắc Cực cũng như hoạt động tại Normandyeo biển Manche.[1]

Tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương vào ngày 6 tháng 5, 1944, Bligh phối hợp cùng các tàu frigate Aylmer (K463)Bickerton (K466) và hai máy bay Fairey Swordfish thuộc Liên đội Không lực Hải quân 825 xuất phát từ tàu sân bay hộ tống Vindex (D15), trong việc truy tìm tàu ngầm Đức U-765. Lực lượng đã đánh chìm chiếc U-boat bằng mìn sâu tại tọa độ 52°30′B 28°28′T / 52,5°B 28,467°T / 52.500; -28.467. 37 thành viên thủy thủ đoàn của U-765 đã tử trận, 11 người sống sót được Bickerton cứu vớt.[1][10]

Vào ngày 7 tháng 11, đang khi neo đậu trong cảng Liverpool, một tai nạn khai hỏa vũ khí phòng không của Bligh đã gây thương trong cho chiếc tàu chở quân RMS Capetown Castle.[9]

Đến ngày 27 tháng 1, 1945, Blighlại cùng các tàu frigate Tyler (K576)Keats (K482) phối hợp tấn công bằng mìn sâu, và đã đánh chìm tàu ngầm U-boat U-1172 trong eo biển St. George's tại tọa độ 52°24′B 05°42′T / 52,4°B 5,7°T / 52.400; -5.700. Toàn bộ 52 thành viên thủy thủ đoàn của U-1172 đều tử trận.[1][11]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Bligh quay trở về Hoa Kỳ, đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 30 tháng 10, 1945; nó được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ như là chiếc USS Bligh (DE-76) vào ngày 12 tháng 11, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Joseph N. Weaver. Tuy nhiên, do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 4, 1946, rồi sau đó được bán cho hãng Northern Metals Corp. tại Philadelphia để tháo dỡ.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Cái tên USS Liddle sau đó được đặt lại cho chiếc USS Liddle (DE-206), một tàu hộ tống khu trục khác cùng thuộc lớp Buckley

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Bligh (DE-76). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ Tynan, Roy (2003). “HMS Bligh K467 (DE 76)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  4. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  5. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  6. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  7. ^ a b c Yarnall, Paul R (ngày 28 tháng 4 năm 2012). “Liddle (DE 76)/HMS Bligh (K467)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  8. ^ a b Naval Historical Center. Liddle (DE-206). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  9. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “HMS Bligh (K 467)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “U-765”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “U-1172”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]