Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | DE-89 (chưa đặt tên) |
Đặt hàng | 1942 [1] |
Xưởng đóng tàu | Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts |
Đặt lườn | 14 tháng 7, 1943 |
Hạ thủy | 2 tháng 10, 1943 |
Người đỡ đầu | bà James E. Hamilton |
Ngừng hoạt động | Chuyển giao cho Anh Quốc |
Xóa đăng bạ | 7 tháng 2, 1947 |
Tái đăng bạ | Được Anh hoàn trả, 20 tháng 1, 1947 |
Số phận | |
Lịch sử | |
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Redmill (K554) |
Đặt tên theo | Robert Redmill [2][4] |
Nhập biên chế | 30 tháng 11, 1943 |
Số phận |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Phân lớp Buckley |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 306 ft (93 m) |
Sườn ngang | 37 ft (11 m) |
Mớn nước |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) |
Tầm xa |
|
Sức chứa | 350 tấn dầu đốt |
Thủy thủ đoàn tối đa | 15 sĩ quan, 198 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
HMS Redmill (K554) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-89 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Đại tá Hải quân Robert Redmill (khoảng 1765-1819), hạm trưởng chiếc HMS Polyphemus (1782) và đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon.[2][4] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến khi bị hư hại nặng do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-1105 tại Đại Tây Dương vào ngày 27 tháng 4, 1945. Vẫn nổi được và được kéo quay trở về cảng, con tàu được xem như một tổn thất toàn bộ, được hoàn trả cho Hoa Kỳ trên danh nghĩa và bị bán để tháo dỡ vào năm 1947.
Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[5][6]
Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[7] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [5][6] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[7]
Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[7][8] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[7]
Redmill được đặt lườn như là chiếc DE-89 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel Shipyard ở Hingham, Massachusetts vào ngày 14 tháng 7, 1943, được hạ thủy vào ngày 2 tháng 10, 1943,[1][2][3][4] và được đỡ đầu bởi bà James E. Hamilton, phu nhân Đại tá Hải quân James E. Hamilton thuộc Văn phòng Tàu chiến Hải quân.[2][3] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Redmil (K554) vào ngày 30 tháng 11, 1943[1][2][3][4] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Richard Alured Denne.[1]
Sau khi hoàn tất việc trang bị và chạy thử máy, Redmill vượt Đại Tây Dương để gia nhập Đội hộ tống 21 tại Belfast, Bắc Ireland, con tàu được cải biến tại cầu tàu Pollock, Belfast trong tháng 1 và tháng 2 cho phù hợp với hoạt động của Hải quân Anh. Nó cùng với toàn bộ Đội hộ tống 21 được tạm thời phục vụ dưới quyền Bộ chỉ huy Nore trong sáu tháng, chủ yếu làm nhiệm vụ hộ tống vận tải ven biển dọc bờ Đông nước Anh và dọc eo biển Manche ra Đại Tây Dương.[9]
Trong Chiến dịch Neptune, hoạt động hải quân trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy, Redmill đảm nhiệm hộ tống cho Roberts (1916) đi đến vị trí bắn phá ngoài khơi bãi đổ bộ, và tiếp tục tuần tra chống tàu ngầm chung quanh chiếc tàu monitor này. Nó trở thành chiếc tàu frigate lớp Captain duy nhất trực tiếp bắn phá mục tiêu đối phương trong cuộc đổ bộ này.[9]
Sang tháng 10, Redmill cùng với các tàu frigate chị em Byron (K508), Conn (K509), Deane (K551), Fitzroy (K553) và Rupert (K561) đi đến Belfast để tham gia thành phần hộ tống cho Đoàn tàu JW 61 đi sang Murmansk, Liên Xô. Đoàn tàu khởi hành từ vịnh Bangor vào ngày 14 tháng 10, và Đoàn tàu RA 61 kết thúc hành trình khứ hồi khi về đến Belfast lúc 09 giờ 30 phút ngày 10 tháng 11.[9]
Vào đầu năm 1945, tàu ngầm U-boat Đức hoạt động tích cực tại khu vực biển Ireland, nên Đội hộ tống 21 cũng được phát đi hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại khu vực này. Vào ngày 27 tháng 3, 1945, Redmill đã hoạt động phối hợp với các tàu frigate Byron và Fitzroy để tấn công bằng mìn sâu và đánh chìm chiếc U-boat U-722 ngoài khơi Hebrides, Scotland, ở tọa độ 57°09′B 06°55′T / 57,15°B 6,917°T. Toàn bộ 44 thành viên thủy thủ đoàn của U-722 đều tử trận.[9][1][10]
Đến ngày 27 tháng 4, tàu ngầm Đức U-1105 phát hiện ba tàu frigate Anh tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương cách 25 nmi (46 km) về phía Tây Ireland, và đã bắn ba quả ngư lôi dò âm G7es (T5) về phía họ. Năm mươi giây sau đó, một quả đánh trúng Redmill tại tọa độ 54°23′B 10°36′T / 54,383°B 10,6°T, tiếp nối vài giây sau đó bởi một quả thứ hai, làm thổi tung một phần đuôi tàu dài khoảng 60 ft (18 m). U-1105 đã lẫn tránh được cuộc phản công sau đó. Được tàu frigate chị em Rupert trợ giúp, Redmill tiếp tục nổi được và được kéo về Lisahally, Bắc Ireland.[1][11]
Không thể sửa chữa một cách hiệu quả kinh tế, Redmill được xem như là một tổn thất toàn bộ. Con tàu được hoàn trả trên danh nghĩa cho Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 1, 1947,[3] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu được bán cho hãng Athens Piraeus Electricity Company, Ltd. tại Athens, Hy Lạp để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 1, 1947[2] hoặc 4 tháng 2, 1947,[3] và nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 2, 1947.[3]