Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts |
Đặt lườn | 9 tháng 7[1][2] hoặc 15 tháng 7,[3][4] 1943 |
Hạ thủy | 13 tháng 8, 1943[1][2][3] |
Hoàn thành | 15 tháng 11, 1943 |
Số phận | Chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh, 15 tháng 11, 1943[1][3] |
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Lawson (K516) |
Đặt tên theo | John Lawson [4] |
Trưng dụng | 15 tháng 11, 1943[1][2] |
Nhập biên chế | 15 tháng 11, 1943[3] |
Tình trạng | Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 20 tháng 3, 1946 |
Hoa Kỳ | |
Trưng dụng | 20 tháng 3, 1946 |
Tình trạng | Bán để tháo dỡ, 31 tháng 1, 1947 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu |
|
Kiểu tàu | Tàu frigate |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 35 ft (11 m) |
Mớn nước | 10 ft (3,0 m) |
Công suất lắp đặt | 6.000 hp (4.500 kW) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 19 kn (22 mph; 35 km/h) |
Tầm xa | 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h) |
Số tàu con và máy bay mang được |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 175 |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
HMS Lawson (K516) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như là chiếc DE-518, một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Anh được đặt tên theo Phó đô đốc Sir John Lawson (khoảng 1615-1665), người từng tham gia cuộc Chiến tranh Anh-Hà Lan thứ nhất.[4] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1946, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1947.
Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[2]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[2]
DE-518 được đặt lườn tại Xưởng hải quân Boston ở Boston, Massachusetts vào ngày 9 tháng 7[1][2] hoặc 15 tháng 7, 1943;[3][4] và được hạ thủy vào ngày 13 tháng 8, 1943.[1][2][3] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 15 tháng 11, 1943,[1][2] đồng thời nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Lawson (K516) dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân John Plomer Somerville.[3]
Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Lawson hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương và tại khu vực eo biển Manch từ năm 1943 đến năm 1945. Nó cũng hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên miền Bắc nước Pháp trong khuôn khổ cuộc Đổ bộ Normandy vào tháng 6, 1944.[1]
Sau khi chiến tranh chấm dứt tại Châu Âu, Lawson được đưa về Xưởng hải quân Philadelphia tại Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 12 tháng 3, 1946, và được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 3, 1946, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu bị Hải quân Hoa Kỳ bán để tháo dỡ vào ngày 31 tháng 1, 1947.[1][2][3]