UGM-96 Trident I (C4) | |
---|---|
Tên lửa đạn đạo Trident I lắp đầu mũi giảm lực cản khí động học bắn thử nghiệm từ mũi Canaveral, ngày 18 tháng 1 năm 1977 | |
Loại | SLBM |
Nơi chế tạo | Mỹ |
Lược sử hoạt động | |
Sử dụng bởi | Hải quân Mỹ |
Lược sử chế tạo | |
Nhà sản xuất | Lockheed Missiles Division |
Thông số | |
Khối lượng | 73.066 pound (33.142 kg) |
Chiều dài | 33 foot (10,2 m) |
Đường kính | 71 inch (1,8 m) |
Đầu nổ | đầu đạn MIRV gồm 8 đầu đạn nhiệt hạch W76 (100 kt) (Mark 4). |
Động cơ | Tên lửa nhiên liệu rắn |
Tầm hoạt động | 4.600 dặm (7.400 km) |
Hệ thống chỉ đạo | Dẫn đường bằng quán tính và thiên văn. |
Độ chính xác | Bán kính chính xác: 229-500 m[1] |
Nền phóng | Tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo |
Tên lửa UGM-96 Trident I, hay Trident C4, là một tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm của Mỹ, chế tạo bởi Lockheed Martin Space Systems, Sunnyvale, California, Hoa Kỳ. Việc triển khai tên lửa bắt đầu từ năm 1979, Trident I thay thế tên lửa Poseidon. Tên lửa UGM-96 Trident được loại biên vào năm 2005,[2] và được thay thế bởi tên lửa Trident II.
Năm 1980, Hải quân Hoàng gia Anh đã yêu cầu Mỹ bán tên lửa Trident I theo thỏa thuận mua bán tên lửa Polaris (Polaris Sales Agreement). Năm 1982, Hải quân Hoàng gia Anh đã chuyển sự chú ý sang tên lửa UGM-133 Trident II. Đây là những tên lửa Trident đầu tiên được đưa vào trang bị.
Tên lửa Trident I là một loại tên lửa nhiên liệu rắn ba tầng.
Tám tàu ngầm đầu tiên thuộc lớp tàu ngầm Ohio được trang bị tên lửa Trident I. Mười hai tàu tiếp theo thuộc lớp tàu ngầm James Madison và Benjamin Franklin cũng được tái trang bị bằng tên lửa Trident I, thay cho tên lửa Poseidon.