Đại hội Viên (tiếng Đức: Wiener Kongress) là một hội nghị với sự tham gia của đại sứ tất cả các quốc gia châu Âu dưới sự chủ trì của chính khách người ÁoKlemens Wenzel von Metternich, và diễn ra tại Vienna từ tháng 11 năm 1814 đến tháng 6 năm 1815, mặc dù các đại biểu đã có mặt đầy đủ và bắt đầu quá trình đàm phán ngay từ cuối tháng 9 năm 1814. Mục tiêu của Đại hội là tìm cách lập lại một nền hòa bình lâu dài cho châu Âu bằng cách giải quyết những vấn đề phát sinh từ Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon. Mục tiêu không chỉ đơn giản là khôi phục lại cương giới cũ mà còn thay đổi lãnh địa của các cường quốc để tạo thế cân bằng và duy trì hòa bình. Các nhà lãnh đạo bảo thủ không ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa hay cách mạng, những thứ đang gây ra mối đe dọa đối với trật tự phong kiến châu Âu. Pháp mất tất cả những lãnh thổ họ chinh phạt được trong những năm gần đó, trong khi Áo, Phổ và Nga giành được nhiều vùng đất béo bở. Phổ giành được những thành bang nhỏ hơn ở miền tây, Pomerania thuộc Thụy Điển và 40% Vương quốc Saxony; Áo giành lại Venice và phần lớn miền bắc Ý. Nga chiếm được một phần của Ba Lan. Vương quốc Hà Lan mới được thành lập mấy tháng trước, bao gồm một số lãnh địa cũ của Áo mà năm 1830 trở thành Bỉ.
Hội nghị thường bị chỉ trích vì gây ra làn sóng đàn áp phong trào quốc gia và phong trào tự do và nó được xem là một phong trào phản động phục vụ cho lợi ích của chế độ quân chủ. Tuy nhiên, nhiều người khen ngợi nó vì nó tạo ra một thời kì ổn định, hòa bình tương đối lâu dài cho phần lớn châu Âu.
Theo nghĩa chuyên môn, "Hội nghị Vienna" không hẳn là một hội nghị: nó không bao giờ họp trong một phiên họp toàn thể và hầu hết các cuộc thảo luận diễn ra không chính thức, mặt đối mặt, hội nghị giữa các cường quốc Áo, Anh, Pháp, Nga và đôi khi có Phổ, hạn chế hoặc không có sự tham gia của các đại biểu khác. Mặt khác, đây là lần đầu tiên trong lịch sử trên quy mô lục địa, đại diện các quốc gia hội họp với nhau để đi đến một quyết nghị thay vì chủ yếu dựa vào thư tín từ các thủ đô. Đại hội Vienna đã hình thành nên khuôn khổ cho trật tự chính trị châu Âu cho đến trước khi Đại chiến thế giới thứ nhất nổ ra năm 1914 dù có nhiều thay đổi sau đó.
Hiệp ước Chaumont năm 1814 đã một lần nữa xác nhận những quyết định mà chúng sẽ được phê chuẩn bởi đại hội quan trọng hơn ở Vienna 1814 - 15. Bao gồm việc thành lập Liên minh Đức, sự chia cắt nước Ý thành các nước nhỏ, sự trung hưng của hoàng triều Bourbon ở Tây Ban Nha và sự mở rộng cho Hà Lan những vùng đất mà năm 1830 phát triển thành Bỉ. Hiệp ước Chaumont trở thành nền tảng của Liên minh các nước châu Âu và hình thành cán cân quyền lực trong nhiều thập kỉ.[1] Những sự dàn xếp khác diễn ra tại Hiệp ước Paris giữa Pháp và Liên minh thứ sáu và Hòa ước Kiel trong đó bao gồm các vấn đề liên quan đến Scandinavia. Hiệp ước Paris xác định rằng một "đại hội toàn thể" nên được tổ chức tại Vienna và gửi lời mời đến "tất cả các cường quốc tham gia vào một trong hai phía của cuộc chiến hiện nay."[2] Việc khai mạc được lên kế hoạch từ tháng 7 năm 1814.[3]
Đại hội trên danh nghĩa là những cuộc gặp gỡ chánh thức của các nhóm chính trị gia và thực hiện chức năng ngoại giao; tuy nhiên, phần lớn thời gian hội nghị được tiến hành tại các cuộc họp văn nghệ sĩ, tiệc chiêu đãi và những buổi khiêu vũ.
Sa hoàng Aleksandr I dẫn đầu phái đoàn Nga mà người đứng đầu trên danh nghĩa là Bộ trưởng Ngoại giao Nga, Bá tước Karl Vasilyevich Nesselrode (1814-1856). Sa hoàng có hai mục tiêu chính, giành lại quyền lực tại Ba Lan và thúc đẩy các nước châu Âu chung sống hòa bình. Ông cũng thành lập Liên minh Thần thánh (1815), chủ yếu nhằm bảo vệ chủ nghĩa quân chủ và chống chủ nghĩa thế tục, chống lại bất kì mối đe dọa nào từ các cuộc cách mạng hay chủ nghĩa Cộng hòa.[7]
Pháp, cường quốc "thứ năm", đại diện là Bộ trưởng Ngoại giao Talleyrand (1814-1815) cũng như đặc sứ toàn quyền Công tước Dalberg. Talleyrand cũng tham gia đàm phán trong Hiệp ước Paris (1814) cho Louis XVIII của Pháp; tuy nhiên nhà vua không tin tưởng ông ta và bí mật đàm phán qua thư từ với Metternich.[9]
Hầu như tất cả các quốc gia châu Âu đều có một phái đoàn đến Vienna – hơn 200 thành bang và hoàng tộc cử đại diện tới Đại hội.[22] Thêm vào đó, có cả đại diện của các thành phố, tập đoàn, tổ chức tôn giáo, (như tu viện) và các nhóm đặc biệt, chẳng hạn như một phái đoàn đại diện cho các nhà xuất bản ở Đức, đến để đòi luật bản quyền và tự do ngôn luận.[23] Đại hội được chú ý vì sự giải trí xa hoa của nó: theo một câu chuyện cười nổi tiếng, người tham dự đại hội không di chuyển mà là nhảy múa.[24]
Talleyrand chứng tỏ ông là một nhà thương thuyết có năng lực để bảo vệ cho nước Pháp vừa bại trận.
Ban đầu, đại diện bốn cường quốc muốn loại bỏ người Pháp ra khỏi bàn đàm phán nhưng sự khéo léo của Talleyrand khiến ông có tên trong hội đồng trong những tuần đầu tiên của cuộc đàm phán. Ông đã liên kết với Hội đồng Tám cường quốc nhỏ (bao gồm Tây Ban Nha, Thụy Điển và Bồ Đào Nha) để kiểm soát cuộc đàm phán. Khi Talleyrand dựa vào ủy ban này để được tự tham gia vào hội nghị, ông liền rời bỏ nó,[25] một lần nữa bỏ rơi đồng minh của mình.
Những do dự của phe liên minh về việc tiến hành các quyết nghị của họ mà không vấp phải sự phản kháng từ các cường quốc hạng hai dẫn đến lời kêu gọi về một cuộc họp sơ bộ, ở đó có sự tham gia của Talleyrand và Hầu tước Labrador, đại diện Tây Ban Nha vào ngày 30 tháng 9 năm 1814.[26]
Thư ký Đại hội Friedrich von Gentz báo cáo lại, "Sự can thiệp của Talleyrand và Labrador đã đánh đổ hết hi vọng về kế hoạch của chúng tôi. Talleyrand phản đối những thoả thuận mà chúng tôi đã thông qua và xỉ vả chúng tôi ra trò trong hai giờ. Đó là cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên."[27]. Các đại diện của Đồng minh lúng túng trả lời rằng các văn kiện liên quan đến thỏa thuận mà họ đã sắp xếp thực sự chẳng có nghĩa lý gì. "Nếu nó chẳng có nghĩa lý gì, tại sao các người lại ký nó?" Labrador cáu kỉnh.
Chính sách của Talleyrand, bị nhiều quốc gia coi đó là tham vọng cá nhân, đòi hỏi sự gần gũi nhưng không phải là thân tình trong mối quan hệ của ông và Labrador, người Talleyrand nhìn với thái độ khinh thị.[28] Labrador bị Talleyrand nhận xét như sau: "thằng què đó, thật không may, lại đi đến Vienna."[29] Talleyrand bổ sung vào những đề nghị của Labrador: ông không có ý định bàn giao 12,000 người afrancesados – những người Tây Ban Nha đã đào tẩu, họ có thiện cảm với Pháp và đã tuyên bố trung thành với Joseph Bonaparte, cũng không nộp lại số lượng lớn các tài liệu, tranh, các tác phẩm nghệ thuật và sách vở đã bị đánh cắp từ các kho lưu trữ, cung điện, nhà thờ của Tây Ban Nha.[30]
Cuộc tranh luận sôi nổi nhất tại Hội nghị là Cuộc khủng hoảng Ba Lan - Sachsen. Nga muốn sở hữu phần lớn Ba Lan còn Phổ muốn có toàn bộ Sachsen, quân vương đang tại vị của những vùng đất này từng liên minh với Napoleon. Sa hoàng được tấn phong làm Vua của Ba Lan.[31] Áo lo sợ rằng sự kiện này sẽ khiến Nga trở nên quá mạnh và Anh cũng đồng tình quan điểm đó. Mọi chuyện gần như đã bế tắc thì Talleyrand đề nghị một giải pháp: Hãy đưa Pháp vào bàn đàm phán và Pháp sẽ ủng hộ Áo và Anh. Ba nước này bí mật ký hiệp ước ngày 3 tháng 1 năm 1815, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh chống lại Nga và Phổ nếu cần thiết để ngăn chặn Nga-Phổ bành trướng thế lực.[26]
Khi Sa hoàng được tin về hiệp ước bí mật đó, ông đã đồng ý một thỏa hiệp dung hòa quyền lợi của tất cả các bên vào ngày 24 tháng 10 năm 1815. Nga nhận hầu hết Công quốc Warsaw của Napoleon trên danh nghĩa nó sẽ được coi là "Vương quốc Ba Lan" – gọi là Quốc hội Ba Lan với Sa hoàng là quốc vương cai trị nó độc lập với Nga. Tuy nhiên, Nga sẽ không nhận tỉnh Posen (Poznań) được giao cho Phổ, gọi là Đại Công quốc Posen mà không bao gồm Kraków, nơi trở thành một thành phố tự do. Hơn thế nữa, Sa hoàng không thể thống nhất các miền đất mới này với các phần của Ba Lan sáp nhập vào Nga những năm 1790. Phổ nhận được 60% lãnh thổ Sachsen - sau này được gọi là tỉnh Sachsen, phần còn lại được trao trả cho vua Friedrich August I với tư cách Vương quốc Sachsen.[32]
Màu hồng là những vùng lãnh địa vẫn thuộc Pháp năm 1814 nhưng bị mất đi sau Vương triều 100 ngày sụp đổ.
Đạo luật cuối cùng tổng hợp tất cả các thỏa thuận riêng rẽ, được ký ngày 9 tháng 6 năm 1815 (vài ngày trước trận Waterloo). Các điều khoản bao gồm:
Nga nhận phần lớn Công quốc Warszawa (Ba Lan) và được phép giữ lại Đại Công quốc Phần Lan (được sáp nhập vào Nga từ Thụy Điển năm 1809 và duy trì hiện trạng đó đến 1917).
Liên minh Đức gồm 39 nước được lập ra từ 300 thành bang của Đế quốc La Mã Thần thánh trước đây, dưới sự quản lý của hoàng đế Áo. Chỉ có một phần lãnh thổ của Áo và Phổ nằm trong Liên minh (gần giống những phần từng nằm trong Đế chế La Mã Thần thánh).
Tính trung lập của 22 bang của Thụy Sĩ đã được đảm bảo và một hiệp ước liên bang đã được khuyến nghị với họ với những điều khoản vững chắc. Bienne và Lãnh địa-Giáo phận Basel được hợp nhất thành bang Bern. Đại hội cũng đề nghị một số thỏa hiệp để các tranh chấp lãnh thổ giữa các bang được giải quyết.[34]
Tự do hàng hải được bảo đảm trên nhiều con sông, nhất là sông Rhein và Danube.
Đạo luật cuối cùng được ký giữa đại diện các nước Áo, Pháp, Bồ, Phổ, Nga, Thụy Điển-Na Uy, và Anh. Tây Ban Nha không ký hiệp định này nhưng công nhận nó vào năm 1817.
Những kết quả chính của Hội nghị, ngoài việc giải quyết những phần lãnh thổ bị Pháp chiếm trong giai đoạn 1795 - 1810, vốn được giải quyết ngay từ hiệp ước Paris, là sự mở rộng của Nga (giành được phần lớn Công quốc Warszawa) và Phổ (giành được các huyện Poznań, Pomerania thuộc Thụy Điển, Westphalia và miền bắc Rheinland). Việc hợp nhất Đức quốc từ gần 300 thành bang của Đế quốc La Mã Thần thánh (giải thể năm 1806) trở nên đơn giản hơn với việc chỉ còn 39 thành bang (4 trong số đó là các thành phố tự do). Các thành bang này lập thành Liên minh Đức, một tổ chức liên kết lỏng lẻo dưới sự lãnh đạo của Áo.
Lãnh địa Giáo hoàng trả lại cho Giáo hoàng. Vương quốc Piedmonte-Sardegna phục hồi lại lãnh thổ cũ và cũng giành quyền kiểm soát Cộng hòa Genova. Ở miền nam Ý, em rể của Napoleon, Joachim Murat, ban đầu được phép giữ lại ngôi vua ở Vương quốc Napoli, nhưng vì ông ta ủng hộ Napoleon trong Vương triều Một trăm ngày dẫn đến việc ông bị truất ngôi và ngai vàng giao lại cho Ferdinando IV nhà Bourbon.[37]
Trong chiến tranh, Bồ Đào Nha bị mất thị trấn Olivença về tay Tây Ban Nha và nay được khôi phục trở lại. Bồ Đào Nha là đồng minh lâu đời của Anh và với sự ủng hộ của người Anh, họ đã thành công trong việc tái sáp nhập Olivença theo quy định của Thảo thuận cuối cùng, theo đó Đại hội "Các cường quốc công nhận sự công bằng của các yêu sách của... Bồ Đào Nha và Brazil đối với thị trấn Olivenza và các lãnh thổ khác được nhượng cho Tây Ban Nha theo Hiệp ước Badajoz năm 1801". Bồ Đào Nha phê chuẩn Văn kiện cuối cùng song Tây Ban Nha không ký. Cuối cùng, quyết định rằng trở thành một phần của châu Âu tốt hơn là bị cô lập, Tây Ban Nha đã công nhận Hiệp ước này vào ngày 7 tháng 5 năm 1817; tuy nhiên, Olivença và các vùng xung quanh không bao giờ được trao về cho Bồ Đào Nha và vấn đề này vẫn chưa được giải quyết.[38][cần câu trích dẫn để xác minh]
Đại hội Vienna thường xuyên bị các nhà sử học thế kỷ 19 và gần đây chỉ trích vì phớt lờ các xung lực dân tộc và tự do cũng như áp đặt một phản ứng ngột ngạt lên Lục địa.[42] Nó là một phần không thể thiếu trong cái gọi là Trật tự Bảo thủ, trong đó các quyền dân chủ và dân quyền gắn liền với các cuộc Cách mạng của Mỹ và Pháp đã không được nhấn mạnh.[42]
Tuy nhiên, trong thế kỷ 20, nhiều nhà sử học đã ngưỡng mộ các chính khách tại Đại hội, những người có công ngăn chặn một cuộc chiến tranh lan rộng khác ở châu Âu trong gần 100 năm (1815–1914). Trong số này có Henry Kissinger, người vào năm 1954 đã viết luận án tiến sĩ của mình, Một thế giới được khôi phục (A World Restored) dựa trên điều đó. Nhà sử học Mark Jarrett lập luận rằng Đại hội Vienna và Hệ thống Đại hội đã đánh dấu "sự khởi đầu thực sự của kỷ nguyên hiện đại của chúng ta". Ông nói Hệ thống Đại hội là quản lý xung đột có chủ ý và là nỗ lực thực sự đầu tiên nhằm tạo ra một trật tự quốc tế dựa trên sự đồng thuận chứ không phải xung đột. "Châu Âu đã sẵn sàng," Jarrett tuyên bố, "chấp nhận mức độ hợp tác quốc tế chưa từng có để ứng phó với Cách mạng Pháp."[43] Nhà sử học Paul Schroeder lập luận rằng các công thức cũ về "cân bằng quyền lực" trên thực tế là rất mất ổn định và mang tính lợi dụng. Ông nói rằng Quốc hội Vienna đã tránh chúng và thay vào đó thiết lập các quy tắc tạo ra một trạng thái cân bằng ổn định và ôn hoà.[44] Đại hội Vienna là cuộc họp đầu tiên trong số một loạt các cuộc họp quốc tế được gọi là Buổi hòa nhạc của Châu Âu, một nỗ lực nhằm xây dựng một sự cân bằng quyền lực hòa bình ở Châu Âu. Nó từng là hình mẫu cho các tổ chức sau này như Hội Quốc liên năm 1919 và Liên hợp quốc năm 1945.
Trước khi khai mạc hội nghị hòa bình Paris năm 1918, Bộ Ngoại giao Anh đã dùng Đại hội Vienna để làm ví dụ cho các đại biểu của mình về cách đạt được một nền hòa bình thành công cùng nhau.[45] Bên cạnh đó, các quyết định chính của Đại hội do Tứ đại cường quốc đưa ra và không phải quốc gia châu Âu nào cũng có thể mở rộng quyền của mình tại Đại hội. Bán đảo Ý chỉ trở thành một "địa danh" khi được chia thành bảy phần: Lombardia–Veneto, Modena, Napoli – Sicilia, Parma, Piedmonte – Sardegna, Toscana và Lãnh địa Giáo hoàng dưới sự kiểm soát của các cường quốc khác nhau.[46]Ba Lan vẫn được phân chia giữa Nga, Phổ và Áo với phần lớn nhất là Vương quốc Ba Lan mới được thành lập vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Nga.
Các thỏa thuận do Bốn cường quốc thực hiện nhằm đảm bảo các tranh chấp trong tương lai sẽ được giải quyết theo cách có thể tránh được các cuộc chiến tranh khủng khiếp như trong 20 năm trước đó.[47] Mặc dù Quốc hội Vienna duy trì sự cân bằng quyền lực ở châu Âu, nhưng nó không thể kiểm tra sự lan rộng của các phong trào cách mạng trên khắp lục địa khoảng 30 năm sau đó.
^Walter M. Simon, "Prince Hardenberg." Review of Politics 18.1 (1956): 88-99. online
^Malettke, Klaus (2009). Die Bourbonen 3. Von Ludwig XVIII. bis zu den Grafen von Paris (1814–1848) (bằng tiếng Đức). 3. Kohlhammer. tr. 66. ISBN3-17-020584-6.
^Couvée, D.H.; G. Pikkemaat (1963). 1813–15, ons koninkrijk geboren. Alphen aan den Rijn: N. Samsom nv. tr. 123–124.
^"[Castlereagh, during his stay in The Hague, in January 1813] induced the Dutch to leave their interests entirely in British hands." On page 65 of Nicolson (1946).
^Fritz Apian-Bennewitz: Leopold von Plessen und die Verfassungspolitik der deutschen Kleinstaaten auf dem Wiener Kongress 1814/15. Eutin: Ivens 1933; Hochschulschrift: Rostock, Univ., Diss., 1933
^According to King (2008), it was Prince de Ligne, an attendee at the conference, who wryly quipped, "the congress does not move forward, it dances." ("Le congrès danse beaucoup, mais il ne marche pas.")
^Susan Mary Alsop (1984). The Congress Dances. New York: Harper & Row, Publishers. tr. 120.
^Wenceslao Ramírez de Villa-Urrutia, Marqués de Villa-Urrutia, España en el Congreso de Viena según la correspondencia de D. Pedro Gómez Labrador, Marqués de Labrador. Segunda Edición Corregida y Aumentada (Madrid: Francisco Beltrán, 1928), 13.
^Antonio Rodríguez-Moñino (ed.), Cartas Políticas (Badajoz: Imprenta Provincial, 1959), 14 (Letter IV, ngày 10 tháng 7 năm 1814). Labrador's letters are full of such pungent remarks, and include his opinions on bad diplomats, the state of the postal system, the weather, and his non-existent salary and coach and accompanying livery for the Congress.
^Villa-Urrutia, España en el Congreso de Viena, 61–2. Joseph had left Madrid with a huge baggage train containing pieces of art, tapestries, and mirrors. The most rapacious of the French was Marshal Nicolas Soult, who left Spain with entire collections, which disappeared to unknown, separate locations around the world. According to Juan Antonio Gaya Nuño, at least "[the paintings] have come to spread the prestige of Spanish art around the whole word."
^W.H. Zawadzki, "Russia and the Re-Opening of the Polish Question, 1801-1814," International History Review (1985) 7#1 tr 19-44.
^C. K. Webster, "England and the Polish-Saxon problem at the Congress of Vienna." Transactions of the Royal Historical Society 7 (1913): 49-101 online.
^Couvée, D.H.; G. Pikkemaat (1963). 1813–15, ons koninkrijk geboren. Alphen aan den Rijn: N. Samsom nv. tr. 127–130.
^Bernard, J.F. (1973). Talleyrand: A Biography, p. 415
^ abBernard, J.F. (1973). Talleyrand: A Biography, p. 417
Chapman, Tim. The Congress of Vienna 1814-1815 (Routledge, 1998)
Dakin, Douglas. "The Congress of Vienna, 1814–1815 and its Antecedents" in Alan Sked, ed., Europe's Balance of Power 1815–1848 (London: Macmillan, 1979), pp. 14–33.
Ferraro, Guglielmo. The Reconstruction of Europe; Talleyrand and the Congress of Vienna, 1814–1815 (1941)
Gulick, E. V. "The final coalition and the Congress of Vienna, 1813-15" in C. W. Crawley, ed., The New Cambridge Modern History, vol 9, 1793-1830 (1965) pp 639–67.
Schroeder, Paul W. "Did the Vienna settlement rest on a balance of power?" American Historical Review (1992) 97#3 pp 683–706. in JSTOR
Schroeder, Paul W. The Transformation of European Politics, 1763–1848 (1996), pp 517–82 advanced diplomatic history online
Vick, Brian. The Congress of Vienna. Power and Politics after Napoleon. Harvard University Press, 2014. ISBN 978-0-674-72971-1.
Webster, C.K. "The pacification of Europe" in A.W. Ward and G.P. Gooch, eds. The Cambridge history of British foreign policy, 1783-1919, (1922) Volume 1 ch IV online pp 392–521
also published as Webster, Charles. The Congress of Vienna, 1814–1815 (1919), a British perspective
Webster, C.K. The Foreign Policy of Castlereagh, 1812–1815, Britain and the Reconstruction of Europe (1931) 618pp online
Nếu để chọn ra nững mẫu túi hiệu thú vị đáp ứng được các tiêu chí về hình khối, phom dáng, chất liệu, mức độ hữu dụng cũng như tính kinh điển thì bạn sẽ chọn lựa những mẫu túi nào?