Từ định danh xanthurus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: xanthós (ξανθός; "có màu vàng") và ourā́ (οὐρά; "đuôi"), hàm ý đề cập đến vây và cuống đuôi có màu vàng tươi ở loài cá này.[8]
Theo Allen và Anderson (2001), cá miền xăng tô là một nhóm phức hợp loài có thể bao gồm hai (hoặc nhiều) loài khác. P. pedleyi, hiện là đồng nghĩa của P. xanthurus, được mô tả từ đảo Lord Howe, rạn san hô Middleton và vùng bờ đông Úc cũng có thể nằm trong số này (nếu được công nhận là hợp lệ).[9]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá miền xăng tô là 50 cm.[13] Cá có màu xanh lam nhạt, dải vàng ở thân trên bắt đầu từ gần đầu vây lưng kéo dài băng qua cuống đuôi và ra cả hai thùy đuôi. Vây lưng màu xám đến hơi vàng, các vây khác màu xám hoặc trắng nhạt.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 68–72.[9]
^Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Paracaesio xanthura trên FishBase. Phiên bản tháng February năm 2021.
^
R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan (biên tập). “Chi Paracaesio”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Caesio xanthurus”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2023.
^ abcW. D. Anderson & G. R. Allen (2001). “Lutjanidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Roma: FAO. tr. 2904. ISBN92-5-104587-9.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)