Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Bài này không có nguồn tham khảo nào. (tháng 2 năm 2009) |
Cao Ly Nghị Tông 고려 의종 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vua Cao Ly | |||||
Tại vị | 1146 – 1170 | ||||
Tiền nhiệm | Cao Ly Nhân Tông | ||||
Kế nhiệm | Cao Ly Minh Tông | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 23 tháng 5 năm 1127 | ||||
Mất | 7 tháng 11 năm 1173 (46-47 tuổi) | ||||
An táng | Hy lăng | ||||
Hậu phi | xem văn bản | ||||
Hậu duệ | xem văn bản | ||||
| |||||
Thân phụ | Cao Ly Nhân Tông | ||||
Thân mẫu | Cung Duệ Vương hậu | ||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Cao Ly Nghị Tông | |
Hangul | 의종 |
---|---|
Hanja | 毅宗 |
Romaja quốc ngữ | Uijong |
McCune–Reischauer | Ŭijong |
Hán-Việt | Nghị Tông |
Cao Ly Nghị Tông (Hangul: 고려 의종, chữ Hán: 高麗 毅宗; 23 tháng 5 năm 1127 – 7 tháng 11 năm 1173, trị vì 1146 – 1170) là quốc vương thứ 18 của Cao Ly. Ông là con trai cả của Cao Ly Nhân Tông và Cung Duệ Vương hậu, anh của Cao Ly Minh Tông và Cao Ly Thần Tông. Ông húy là Vương Hiện (왕현; 王晛), tên khác là Vương Triệt (왕철; 王澈), tự Nhật Thăng (일승; 日升).
Ông đã vinh danh những quan văn của mình bằng nhiều nghi lễ song lại không ưa các võ quan. Ông thường buộc họ phải tham gia thi đấu võ thuật giải trí cho mình và các quan văn, cũng như trao cho họ một phần nhỏ nhặt khi phân lãnh địa. Ông cũng thường say rượu, và khi đó lại tiếp tục chọc giận các chiến binh.
Cuối cùng, vào mùa thu năm 1170, sau khi bị phân biệt đối xử liên tục, cơn giận dữ của các quan võ đã biến thành hành động. Ba chiến binh là Trịnh Trọng Phu (郑仲夫), Lý Nghĩa Phương (李義方), Lý Cao (李高) và những người khác đã nổi dậy, sát hại các quan văn, phế truất vua Nghị Tông và đưa vương đệ Vương Hạo lên ngôi, tức Cao Ly Minh Tông.
Nghị Tông bị ép uống rượu độc tại chùa Khôn Nguyên (坤元寺), thi thể ông được chôn vội tại một góc trong khuôn viên chùa, về sau được cải táng tại Hy lăng (禧陵). Thụy hiệu Cương Quả Trang Hiếu Đại Vương (剛果莊孝大王).