Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Cao Ly Cao Tông 고려 고종 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vua Cao Ly | |||||
Tại vị | 1213 – 1259 | ||||
Tiền nhiệm | Cao Ly Khang Tông | ||||
Kế nhiệm | Cao Ly Nguyên Tông | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 3 tháng 2 năm 1192 | ||||
Mất | 21 tháng 7 năm 1259 (67-68 tuổi) | ||||
An táng | Hồng lăng | ||||
Hậu phi | An Huệ Vương hậu | ||||
Hậu duệ | Cao Ly Nguyên Tông | ||||
| |||||
Thân phụ | Cao Ly Khang Tông | ||||
Thân mẫu | Nguyên Đức Vương hậu | ||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Cao Ly Cao Tông | |
Hangul | 고종 |
---|---|
Hanja | 高宗 |
Romaja quốc ngữ | Gojong |
McCune–Reischauer | Kojong |
Hán-Việt | Cao Tông |
Cao Ly Cao Tông (Hangul: 고려 고종, chữ Hán: 高麗 高宗; 3 tháng 2 năm 1192 – 21 tháng 7 năm 1259, trị vì 1213 – 1259) là vị vua thứ 23 của Cao Ly trong lịch sử Triều Tiên. Ông là con trai duy nhất của Cao Ly Khang Tông và Nguyên Đức Vương hậu, được Thôi Trung Hiến đưa lên làm vua, nguyên danh là Vương Triệt (왕철, 王皞), tự Thiên Hựu (천우, 天祐).
Thời đại trị vì của Cao Tông được đánh dấu bằng các cuộc xung đột kéo dài với Đế quốc Mông Cổ tìm cách thôn tính Cao Ly, và chỉ kết thúc khi vương quốc này cuối cùng bị biến thành chư hầu năm 1259.
Dù lên ngôi năm 1213, vua Cao Tông không có nhiều quyền lực cho đến khi các quân sư đầy quyền lực bị giết hết. Năm 1216, Đế quốc Khiết Đan đã xâm lược nhưng đã bị đánh lui. Tháng 8 năm 1232, Cao Tông dời đô của Cao Ly từ Tùng Đô (tức Khai Thành) đến đảo Giang Hoa và đã bắt đầu xây dựng các thành trì phòng thủ ở đó để chuẩn bị chống cự quân Mông Cổ. Cao Tông đã chống cự được xâm lược của Mông Cổ gần 30 năm trước khi vương quốc của ông bị buộc phải đầu hàng quân Mông năm 1259. Cao Tông mất ngay sau đó.
Năm 1251, việc chạm khắc Bát vạn đại tàng kinh, một bộ tuyển tập kinh Phật ghi chép lại trên 81.000 tấm gỗ đã hoàn thành.
Ông mất khi được 67 tuổi, truy thụy Trung Hiến An Hiếu Đại Vương (忠憲安孝大王), táng tại Hồng lăng (洪陵). Con trai đầu của ông kế vị, tức Cao Ly Nguyên Tông.