Đối với Đồng Minh, việc nắm giữ thành phố cùng bến cảng của nó có vai trò then chốt đối với việc bảo vệ Ai Cập và Kênh đào Suez, bởi như vậy sẽ buộc đối thủ của họ phải vận chuyển phần lớn các hàng tiếp tế bằng đường bộ từ cảng Tripoli qua quãng đường 1500 km sa mạc, cũng như phải phân tán bớt binh lính không thể tham gia tiến công. Tobruk đã phải hứng chịu những đòn tấn công trên bộ lặp đi lặp lại cũng như các cuộc pháo kích và oanh tạc gần như là liên tục. Bộ máy tuyên truyền Quốc xã đã gọi đội quân phòng thủ ngoan cường tại đây là 'những con chuột cống', một thuật ngữ mà binh lính Úc chấp nhận như một lời khen ngợi mỉa mai.
^Những thông tin về thương vong trong thời gian bao vây có hơi mâu thuẫn, và nên chú ý đến số quân đồn trú Úc đã rút khỏi Tobruk trong tháng 10.[3] Bách khoa toàn thư của Đài tưởng niệm Chiến tranh Úc công bố rằng thương vong của Úc trong toàn bộ cuộc vây hãm là 559 chết, 2.450 bị thương, và 941 bị bắt.[4] Tuy nhiên, lịch sử chính thức của Úc, khi tính cả giai đoạn hai ngày trước khi cuộc vây hãm bắt đầu, lại tuyên bố thướng vong của Sư đoàn 9 từ ngày 8 tháng 4 đến 25 tháng 10 lên đến 746 chết, 1.996 bị thương, và 604 bị bắt.[5] Nhưng Maughan lại chú thích thêm rằng chỉ có 467 người Úc bị bắt làm tù binh trong cuộc bao vây.[6] Ngoài ra, I.S.O Playfair, sử gia chính thức của Anh về chiến sự tại Trung Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã tuyên bố tính từ khi bắt đầu cuộc vây hãm trong tháng 10, phe Đồng Minh đã mất đến 3.836 người. Ông ta phân chia số liệu đó như sau: Úc - 744 chết, 1.974 bị thương, 476 mất tích; Anh - 88 chết, 406 bị thương, 15 mất tích; Ấn Độ thuộc Anh - 1 chết, 25 bị thương; Ba Lan: 22 chết, 82 bị thương, và 3 mất tích.[7]
^Lịch sử chính thức Úc tuyên bố rằng từ ngày 10 tháng 4 đến 9 tháng 10, phe Trục có "74 máy bay [đã] chắc chắn bị tiêu diệt, 59 chiếc có thể bị tiêu diệt và 145 chiếc bị thương. Máy bay chỉ được báo cáo là bị tiêu diệt khi có người nhìn thấy bị rơi. Có hai trường hợp bắt được tài liệu của đối phương để có thể so sánh với báo cáo của lữ đoàn, cho thấy số liệu máy bay bị thương cho thấy đã được giảm bớt đi đáng kể. Có thể có khoảng 150 máy bay địch đã bị phá hủy."[8]
Aitchison, Jean (2003). “Reportage, literature and willed credulity by John Carey”. New Media Language. Lewis, Diana M. Routledge. tr. 62–3. ISBN0-415-28303-5.
Combes, David (2001). Morshead: Hero of Tobruk and El Alamein. Melbourne: Oxford University Press. ISBN0-19-551398-3.
Jentz, Thomas L. (1998). Tank Combat In North Africa: The Opening Rounds, Operations Sonnenblume, Brevity, Skorpion and Battleaxe, February 1941 – June 1941. Schiffer Publishing Ltd. ISBN0-7643-0226-4.
Johnston, Mark (2003). That Magnificent 9th: An Illustrated History of the 9th Australian Division. Allen & Unwin. ISBN1-86508-654-1.
Mead, Richard (2007). Churchill's Lions: A biographical guide to the key British generals of World War II. Stroud (UK): Spellmount. ISBN978-1-86227-431-0.
Murphy, W.E. (1961). The Relief of Tobruk. The Official History of New Zealand in the Second World War 1939–1945. Fairbrother, Monty C. (editor). Wellington, NZ: War History Branch, Department of Internal Affairs. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2007.
Playfair, Major-General I.S.O.; with Flynn R.N., Captain F.C.; Molony, Brigadier C.J.C.; Toomer, Air Vice-Marshal S.E. (2004) [1st. pub. HMSO 1956]. Butler, J.R.M (biên tập). The Mediterranean and Middle East, Volume II The Germans come to the help of their Ally (1941). History of the Second World War, United Kingdom Military Series. Naval & Military Press. ISBN1-84574-066-1.
Playfair, Major-General I.S.O.; with Flynn, Captain F.C. (R.N.); Molony, Brigadier C.J.C.; Gleave, Group Captain T.P. (2004) [1st. pub. HMSO:1960]. Butler, Sir James (biên tập). The Mediterranean and Middle East, Volume III: British Fortunes reach their Lowest Ebb (September 1941 to September 1942). History of the Second World War, United Kingdom Military Series. Uckfield, UK: Naval & Military Press. ISBN1-84574-067-X.
Wavell, Archibald (1946). Operations in the Middle East from 7th February to 15th July 1941. Wavell's Official Despatches. published in the “No. 37638”. The London Gazette (invalid |supp= (trợ giúp)). ngày 2 tháng 7 năm 1946.