Tổng tiến công mùa xuân 1945 tại Ý

Tổng tiến công mùa xuân 1945 tại Ý
Một phần của Chiến dịch Ý, Chiến tranh thế giới thứ hai,
Thời gianngày 6 tháng 4 năm 1945 – ngày 2 tháng 5 năm 1945
Địa điểm
Emilia-Romagna, Lombardy và vùng Veneto, miền Bắc Ý
Kết quả
Tham chiến
 United Kingdom
 United States
Ba Lan Free Polish Forces
 British India
 Brazil
 New Zealand
 Nam Phi
 Ý
and others
 Đức
 Italian Social Republic
Chỉ huy và lãnh đạo
Hoa Kỳ Mark Clark
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Richard McCreery
Hoa Kỳ Lucian Truscott
Đức Quốc xã Heinrich von Vietinghoff (POW)
Đức Quốc xã Traugott Herr (POW)
Đức Quốc xã Joachim Lemelsen (POW)
Cộng hòa Xã hội Ý Benito Mussolini 
Cộng hòa Xã hội Ý Rodolfo Graziani (POW)
Lực lượng
Tập đoàn quân 15 (Đồng Minh[nb 1]
British 8th Army 632,980 fighting strength
U.S. 5th Army 266,883 quân[1]
Army Group C 394,000 lính[2][nb 2]
Thương vong và tổn thất
16,258 [nb 3] 30–32,000 [nb 4]

Cuộc tấn công mùa xuân năm 1945 tại Ý, có tên mã là Chiến dịch Grapeshot,[4] là cuộc tấn công cuối cùng của lực lượng Đồng Minh trong Chiến dịch Ý vào giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc tấn công vào đồng bằng Lombardy được thực hiện bởi Tập đoàn quân 15 (Đồng Minh) và bắt đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 1945 và kết thúc vào ngày 2 tháng 5 cùng năm với sự kiện Đức quốc xã đầu hàng tại Ý.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Đồng Minh đã tiến hành cuộc tấn công lớn cuộc vào Phòng tuyến Gothic vào tháng 8 năm 1944, với Quân đoàn 8(Anh Quốc do Trung tướng Oliver Leese chỉ huy tiến công lên đồng bằng ven Biển AdriaticQuân đoàn 5(Hoa Kỳ) do Trung tướng Mark Clark chỉ huy tiến công qua dãy Anpennini. Mặc dù quân Đồng Minh đã định từ bỏ việc tiến công vào phòng tuyến Gothic mà nó có sự phòng thủ đáng sợ, họ suýt thất bại trong việc triệt thoái về thung lũng Po trước khi mùa đông đến làm cho nỗ lực đi xa hơn trở thành bất khả thi. Đội hình ở tuyến đầu của Đồng minh sử dụng phần còn lại của mùa đông trong điều kiện hết sức khó khăn trong khi chuẩn bị trong cuộc tấn công mùa xuân năm 1945.

Thay đổi chỉ huy

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi Thống chế John Dill, Đại sứ Anh tại Washington qua đời ngày 5 tháng 11 năm 1944, Thống chế Maitland Wilson được cử thay thế vào vị trí này. Tướng Harold Alexander sau đó được phong Thống chế, thay thế Wilson vào chức Tư lệnh tối cao lực lượng Đồng minh tại Địa Trung Hải vào ngày 12 tháng 12. Clark thay thế Alexander cho chức Tư lệnh Đồng minh tại Ý, nhưng không qua thăng cấp. Trung tướng Lucian Scott, tư lệnh Quân đoàn VI (Hoa Kỳ) trong trận Anzio và cuộc giải phóng Rome, từng đổ bộ vào miền Nam Pháp trong Chiến dịch Dragoon, trở lại Ý để nhận nhiệm vụ chỉ huy Quân đoàn 5.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1945, Albert Kesselring được cử vào vị trí Tư lệnh tối cao Tập đoàn quân Tây của Đức quốc xã, thay thế Thống chế Gerd von Rundstedt. Heinrich von Vietinghoff trở về từ Baltic để tiếp quản chức cũ của Kesselring, và Traugott Herr, chỉ huy giàu kinh nghiệm của Quân đoàn tăng LXXVI nắm quyền chỉ huy Quân đoàn 10.Joachim Lemelsen, chỉ huy lâm thời của quân đoàn 10, chuyển sang làm chỉ huy Quân đoàn 14.

Bố trí lực lượng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự thiếu hụt lực lượng của Đế quốc Anh ở Italia tiếp diễn; tháng 10 năm 1944, Sư đoàn Bộ binh Ấn 4 được điều tới Hy LạpSư đoàn Bộ binh Anh quốc 4 tiếp nối họ từ tháng 11 năm 1944, cùng với Lữ đoàn 139 thuộc Sư đoàn Bộ binh Anh quốc 46. Phần còn lại của sư đoàn này cũng theo họ vào tháng 12 cùng với Lữ đoàn Sơn cước Hy Lạp 3. Vào đầu năm 1945, Sư đoàn Bộ binh Anh quốc 1 được điều đi Palestine và vào cuối tháng 1, Quân đoàn Canada 1Sư đoàn Bộ binh Anh quốc 5 di chuyển đến Tây Bắc Châu Âu. Những sự kiện trên làm giảm lực lượng của Quân đoàn 8, lúc đó được chỉ huy bởi Trung tướng Richard McCreery, xuống còn 7 sư đoàn. Hai sư đoàn Anh quốc khác cũng định di chuyển theo đến Tây Bắc châu Âu, tuy nhiên tướng Harold Alexander có thể giữ lực lượng này lại Ý.

Quân lực Hoa Kỳ được củng cố lực lượng trong thời gian giữa tháng 9 và tháng 11 năm 1944, với sự tham gia của Sư đoàn Brazil 1, và vào tháng 1 năm 1945 với đơn vị đặc biệt là Sư đoàn Sơn cước Hoa Kỳ 10[5] Tổng cộng lực lượng của Đồng Minh ở Ý là 17 sư đoàn và 8 lữ đoàn độc lập (bao gồm cả 4 nhóm quân tình nguyện Italia từ Quân đội Đồng Minh Ý, đơn vị này được huấn luyện và trang bị bởi người Anh), do đó tương đương với 20 sư đoàn. Tập đoàn quân 15 của Anh có lực lượng hạn chế bao gồm 1.334.000 quân, trong khi Quân đoàn 8 của Anh có lực lượng hiệu quả là 632.980 quân, và Quân đoàn 8 của Hoa Kỳ có 266.833 quân.[1][6]

Lực lượng Phe Trục tại Ý vào ngày 9 tháng 4 năm 1945 có 21 sư đoàn yếu của Đức và 4 sư đoàn của phát xít Ý với 349.000 quân Đức và 45.000 quân Ý. Có 91.000 quân Đức có thể điều động từ các căn cứ và người Đức chỉ huy khoảng 10 vạn cảnh sát Ý.[2][7] Ba sư đoàn phát xít Ý được phân dưới quyền chỉ huy của tướng Rodolfo Graziani bảo vệ sườn Tây đối diện với Pháp, còn sư đoàn thứ tư chiến đấu cùng Quân đoàn 14 của Đức, phòng thủ khu vực ít có khả năng bị tấn công.[8]

Kế hoạch tấn công

[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng Clark đã lên kế hoạch tấn công cho chiến dịch này vào ngày 18 tháng 3 năm 1945. Mục tiêu của Đồng minh là: "Tiêu diệt lực lượng địch (phe Trục) lớn nhất có thể ở phía Nam vùng Po, vượt sông Po và đánh chiếm Verona.[9] Trong giai đoạn I của chiến dịch, Quân đoàn 8 của Anh sẽ vượt thành công sông SenioSanterno và sau đó mở hai cuộc công kích, một hướng về Budrio song song với đường Bologna, đường Via Aemillia và mũi còn lại tấn công theo hướng Tây Bắc dọc đường Via Adriatica, hướng về BastiaKẽ hở Argenta, một dải đất khô chạy qua vùng đất ngập nước phía Tây hồ Comacchio. Một cuộc đổ bộ xuyên qua hồ và cuộc đổ bộ đường không sẽ tạo sức ép đối với quân phòng thủ ở sườn hồ và làm phá vỡ vị trí Argenta.

Trận chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Kết cục

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Total army group strength including Lines of Communication and support troops totalled 1,333,856[1]
  2. ^ In addition the army group had 91,000 Lines of Communication and anti-aircraft troops and controlled a further 100,000 local police[2]
  3. ^ From ngày 9 tháng 4 năm 1945 until the end of Operation Grapeshot, thus casualties exclude those suffered during the preliminary operations.
    5th Army: 7,965 casualties. American: 6,834 (1,288 chết, 5,453 wounded and 93 missing) casualties; South African: 537 (89 chết, 445 wounded and 3 missing) casualties; Brazilian: 594 (65 chết, 482 wounded and 47 missing) casualties.
    8th Army: 7,193 casualties. British: 3,068 (708 chết, 2,258 wounded and 102 missing) casualties; New Zealand: 1,381 (241 killed and 1,140 wounded) casualties; Indian: 1,076 (198 chết, 863 bị thương and 15 missing) casualties; Colonial: 46 (11 chết and 35 wounded) casualties; Polish: 1,622 (260 chết, 1,355 wounded and 7 missing) casualties.
    Italians fighting with both armies: 1,100 (242 killed, 828 wounded and 30 missing) casualties.[3]
  4. ^ British estimated around 30,000 casualties were inflicted upon the Axis forces during this offensive, while a German staff officer estimated 32,000 casualties suffered during Operation Grapeshot.[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Jackson, p. 230.
  2. ^ a b c Jackson, p. 236.
  3. ^ a b Jackson, p. 334
  4. ^ Jackson, p. 253
  5. ^ Clark, 1950 p.607-09
  6. ^ Jackson, p. 223.
  7. ^ Blaxland, p. 242
  8. ^ Blaxland, p. 243
  9. ^ Jackson, p. 203.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Khám phá danh mục của
Khám phá danh mục của "thiên tài đầu tư" - tỷ phú Warren Buffett
Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá danh mục đầu tư của Warren Buffett
Kỹ năng của Toshinori Yagi - One For All - Boku no Hero Academia
Kỹ năng của Toshinori Yagi - One For All - Boku no Hero Academia
Là anh hùng nổi tiếng nhất thế giới - All Might, Toshinori là người kế nhiệm thứ 8 và có thể sử dụng rất thành thạo One For All
NFC và những ứng dụng thú vị của nó
NFC và những ứng dụng thú vị của nó
Chúng ta thường quan tâm đến Wifi, Bluetooth, Airdrop mà bỏ qua NFC và những ứng dụng thú vị của nó