Trận chiến biển Java là một trận hải chiến ác liệt trong Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai tại biển Java, Đông Ấn thuộc Hà Lan (nay là Indonesia) giữa khối Đồng Minh gồm Hà Lan, Đế quốc Anh, Hoa Kỳ, Úc và khối Trục gồm Đế quốc Nhật Bản vào ngày 27 tháng 2 năm 1942. Hải quân Đồng Minh đã phải gánh chịu thất bại thảm hoạ từ Hải quân Đế quốc Nhật Bản với cái chết của Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm Đồng Minh Mĩ-Anh-Hà Lan-Úc, Chuẩn Đô đốc Hà Lan Karel Doorman và sự chiếm đóng sau đó của Nhật Bản đối với toàn bộ Đông Ấn thuộc Hà Lan.
Vào ngày 23 tháng 1 năm 1942, một lực lượng gồm 4 tàu khu trục Hoa Kỳ tấn công đoàn tàu vận tải xâm lấn của Nhật Bản tại eo Makassar trong khi chúng tiếp cận Balikpapan thuộc đảo Borneo.[8] Vào ngày 13 tháng 2, Đồng Minh đã chiến đấu không thành công - trong Trận Palembang - để ngăn chặn quân Nhật đánh chiếm cảng dầu chính ở phía Đông đảo Sumatra.[9] Đêm 19 rạng 20 tháng 2, quân Đồng Minh tấn công Lực lượng viễn chinh phía Đông ngoài khơi Bali trong Trận Eo Badung.[10] Vào cùng ngày 19, Nhật Bản tiến hành hai cuộc Không kích Darwin, ở Lục địa Australia, một từ tàu sân bay và một từ căn cứ trên đất liền.[11] Việc Darwin bị tàn phá làm cho nó trở nên vô dụng đối với nhiệm vụ hỗ trợ hậu cần và tiến hành hoạt động quân sự bằng hải quân cho Đông Ấn thuộc Hà Lan.
Lực lượng tàu chiến Nhật bảo vệ đoàn vận tải, chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Takeo Takagi[13] bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng (Nachi và Haguro) và hai tàu tuần dương hạng nhẹ (Naka và Jintsū) và 14 tàu khu trục (Yūdachi, Samidare, Murasame, Harusame, Minegumo, Asagumo, Yukikaze, Tokitsukaze, Amatsukaze, Hatsukaze, Yamakaze, Kawakaze, Sazanami, và Ushio) của Đội tàu Khu trục thứ 4 chỉ huy bởi Shoji Nishimura.[14] Tàu tuần dương hạng nặng của Nhật mạnh hơn nhiều so với Đồng Minh, với 8 khẩu pháo 203 mm mỗi chiếc và ngư lôi siêu hạng. Trong khi đó, Exter chỉ có 6 khẩu 203 mm và chỉ có 6 khẩu của Houston trong số 9 khẩu ban đầu còn hoạt động được do tháp pháo phía sau của nó bị phá huỷ sau một trận không kích.
Hai bên giao tranh trên biển Java liên tục từ giữa chiều đến nửa đêm trong đó Đồng Minh cố gắng tiếp cận và tấn công đoàn tàu chở quân của Hạm đội xâm lấn Nhật Bản, nhưng bị ngăn cản bởi hoả lực vượt trội của Nhật Bản. Do Nhật Bản không thể tiếp cận bằng hạm đội bằng đường không do thời tiết xấu, nên Đồng Minh có được ưu thế trên không cục bộ vào ban ngày. Tuy nhiên, thời tiết cũng ngăn cản việc liên lạc và làm cho sự hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng Đồng Minh - trinh sát, không quân, và sở chỉ huy Hạm đội - xấu đi. Người Nhật cũng gây nhiễu tần số vô tuyến điện. Cuộc tấn công của Đồng Minh bị lực lượng hộ tống Nhật chống trả, gây ra tổn thất nặng nề cho phía Đồng Minh.
^L, Klemen (1999–2000). “Rear-Admiral Karel W.F.M. Doorman”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “Rear-Admiral Takeo Takagi”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “The Invasion of British Borneo in 1942”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “The capture of Balikpapan, January 1942”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “The Fall of Menado, January 1942”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “Admiral Thomas Charles Hart”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2011.
^Muir, Dan (1999–2000). “The Balikpapan Raid”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “The Battle for Palembang, February 1942”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “The Badung Strait Battle”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2015.
^L, Klemen (1999–2000). “Rear-Admiral Takeo Takagi”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
^L, Klemen (1999–2000). “Rear-Admiral Shoji Nishimura”. Forgotten Campaign: The Dutch East Indies Campaign 1941–1942. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2021.
Hara, Tameichi (1961). Japanese Destroyer Captain. New York & Toronto: Ballantine Books. ISBN0-345-27894-1. Firsthand account of the battle by the captain of the Japanese destroyer Amatsukaze.
Holbrook, Heber (1981). U.S.S. Houston: The Last Flagship of the Asiatic Fleet. Dixon, CA, USA: Pacific Ship and Shore.
Thomas, David A. (1968). The Battle of the Java Sea. New York: Stein & Day. ISBN0-330-02608-9.
van Oosten, F. C. (1976). The Battle of the Java Sea (Sea battles in close-up; 15). Naval Institute Press. ISBN0-87021-911-1.
Visser, H. (tháng 9 năm 2017). “Question 25/53”. Warship International. LIV (3): 189–190. ISSN0043-0374.
Whiting, Brendan (1995). Ship of Courage: The Epic Story of HMAS Perth and Her Crew. St Leonards, NSW: Allen & Unwin. ISBN1-86373-653-0.
Winslow, Walter G. (1984). The Ghost that Died at Sunda Strait. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN0-87021-218-4. Firsthand account of the battle by a survivor from USS Houston.
Winslow, Walter G. (1994). The Fleet the Gods Forgot: The U.S. Asiatic Fleet in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-928-X.
“Fall of the Dutch East Indies”. Animated histories of Pacific battles of World War II. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.