Dục Lãng 毓朗 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Bối lặc nhà Thanh | |||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 27 tháng 8, 1864 | ||||||||||||||||
Mất | 14 tháng 12, 1922 | (58 tuổi)||||||||||||||||
An táng | Đại Bắc cung, Bảo Sơn, Mật Vân | ||||||||||||||||
Hậu duệ | Hằng Nghiêu Hằng Bột | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Hoàng tộc | Ái Tân Giác La | ||||||||||||||||
Thân phụ | Định Thận Quận vương Phổ Hú | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Trắc Phúc tấn Ngạc Giai thị |
Dục Lãng (tiếng Mãn: ᠶᡡ
ᠯᠠᠩ, Möllendorff: Yū Lang, Abkai: Yv Lang, chữ Hán: 毓朗, 27 tháng 8 năm 1864 – 14 tháng 12 năm 1922), tự Nguyệt Hoa (月华), hiệu Dư Si (余痴), biệt hiệu Dư Si Sinh (余痴生)[1], Ái Tân Giác La, là một Tông thất, Quân cơ đại thần cuối đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông còn được biết đến là 1 trong "Nhị vương Tam Bối lặc".[a]
Dục Lãng sinh vào giờ Mùi, ngày 16 tháng 7 (âm lịch) năm Đồng Trị thứ 3 (1864), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai thứ hai của Định Thận Quận vương Phổ Hú, mẹ ông là Trắc Phúc tấn Ngạc Giai thị.[2] Năm Quang Tự thứ 2 (1876), ông được ban mang Hoa linh và mũ mão Nhị phẩm. Năm thứ 10 (1884), tháng 12, thông qua Khảo phong mà ông được phong làm Tam đẳng Trấn quốc Tướng quân.[3] Năm thứ 28 (1902), tháng 7, nhậm chức Hồng lô tự Thiếu khanh. Năm thứ 30 (1904), tháng 9, thăng làm Quang lộc tự Khanh.[4] Năm thứ 31 (1905), tháng 3, ông thụ Nội các Học sĩ kiêm hàm Lễ bộ Thị lang. Tháng 9, thụ Tả Thị lang Tuần Cảnh bộ.[5] Năm thứ 32 (1906), điều làm Tả Thị lang Dân Chính bộ.[6] Năm thứ 33 (1907), phụ thân ông qua đời, ông tập tước Định Thân vương đời thứ 7, nhưng Định vương phủ không phải Thiết mạo tử vương, nên ông chỉ được phong làm Bối lặc.[3] Năm thứ 34 (1908), tháng 11, sau khi Tuyên Thống Đế Phổ Nghi lên ngôi, Dục Lãng được thưởng nhận gấp đôi bổng lộc. Tháng 12, phái sung Chuyên ti huấn luyện Cấm vệ quân Đại thần.[7] Năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), ông nhậm chức Giám đốc trường Pháp – Chính[b] dành cho hậu duệ Quý tộc.[8] Năm thứ 2 (1910), tháng 7, ông trở thành Quân cơ đại thần. Năm thứ 3 (1911), tháng 4, ông được bổ nhiệm lại làm Bộ trưởng cố vấn quân sự. Từ sau Cách mạng Tân Hợi, ông tích cực tham gia các hoạt động của Đảng Tông xã.
Năm Dân Quốc nguyên niên (1912), tháng 9, ông phụng ý chỉ cho phép Vương công phủ đệ, ruộng đất, ân thưởng trở thành tài sản cá nhân. Năm thứ 2 (1913), tháng 12, ông thay quyền Tông Nhân phủ Hữu Tông nhân. Năm thứ 4 (1915), tháng giêng, ông chính thức nhậm chức Hữu Tông nhân. Tháng 2, kiêm thay quyền Tả Tông nhân. Tháng 12, thăng làm Tông Nhân phủ Hữu Tông chính. Năm thứ 6 (1917), tháng giêng, điều làm Tả Tông chính. Năm thứ 10 (1921), tháng 2, vì tài lực nhà Thanh thiếu thốn, cần cắt bớt các loại chi phí, Dục Lãng cùng với Na Ngạn Đồ, Tái Trạch (载泽), Phổ Luân (溥倫), Tái Nhuận (载润), Tái Đào (载涛), Tái Doanh (载瀛) và một số đại thần khác được phái khảo sát tình hình cụ thể ở Nội vụ phủ và các nha môn, thỏa thuận với nhau làm việc và tấu thỉnh xử lý.[Dụ 1] Năm thứ 11 (1922), tháng 5, ông hoàn thành việc chỉnh sửa Ngọc điệp, đây cũng là lần đại tu Ngọc điệp chính thức cuối cùng của nhà Thanh, nhờ làm việc thỏa đáng mà ông được ban thưởng Bổ phục Tứ hành long.[Dụ 2] Ngày 26 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, ông qua đời ở tuổi 59, được truy thụy Mẫn Đạt Bối lặc (敏达貝勒).