Diên Cát

Diên Cát
延吉市 · 연길시
—  Thành phố cấp huyện  —
Trung tâm Diên Cát năm 2010.
Trung tâm Diên Cát năm 2010.
Vị trí Diên Cát ở Diên Biên
Vị trí Diên Cát ở Diên Biên
Lỗi Lua trong Mô_đun:Location_map tại dòng 583: Không tìm thấy trang định rõ bản đồ định vị. "Mô đun:Location map/data/Jilin", "Bản mẫu:Bản đồ định vị Jilin", và "Bản mẫu:Location map Jilin" đều không tồn tại.Vị trí Diên Cát trong tỉnh Cát Lâm
Quốc giaTrung Quốc
TỉnhCát Lâm
Khu hành chính cấp địaDiên Biên
Phân khu cấp thị trấn6 nhai đạo
3 trấn
Thủ phủNhai đạo Henan
Diện tích[1]
 • Thành phố cấp huyện1.748,3 km2 (6,750 mi2)
 • Đô thị40,66 km2 (1,570 mi2)
Độ cao179 m (587 ft)
Dân số (2017)[1]
 • Thành phố cấp huyện639.000
 • Mật độ37/km2 (95/mi2)
 • Đô thị548.700
 • Mật độ đô thị130/km2 (350/mi2)
Múi giờGiờ ở Trung Quốc (UTC+8)
133000 sửa dữ liệu
Mã điện thoại433 sửa dữ liệu
Trang webwww.yanji.gov.cn
Diên Cát
Tiếng Trung延吉
Tiếng Hàn Trung Hoa
Chosŏn'gŭl
연길
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
옌지

Diên Cát (tiếng Trung: 延吉市, Chosŏn'gŭl: 연길, Yeon-gil; Hangul: 옌지, Yenji, Hán Việt: Diên Cát thị) là một huyện cấp thị (thành phố cấp huyện) của châu tự trị Diên Biên, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, gần biên giới với Bắc Triều Tiên. Thành phố này được chia ra 6 nhai đạo và 3 trấn.

Thành phố này có diện tích 1350 km2 và dân số là 400.000 người, trong đó phần lớn là người Triều Tiên (chiếm 58,4% thành phần dân cư), còn lại là 39,4% người Hán.

Diên Cát là một trung tâm giao thông và thương mại bận rộn giữa Trung Quốc và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Diên Cát và môi trường của nó phần lớn không có dân cư cho đến những năm 1800 khi các hoàng đế nhà Thanh của Trung Quốc bắt đầu khuyến khích di cư từ Trung Quốc bản thổ theo đúng chính sách "Tiến vào Quan Đông" nhằm gia tăng dân cư tại Mãn Châu trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của đế quốc Nga ở phía bắc.

Thành phố này là trụ sở của tỉnh Giang Đảo thuộc quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc của đế quốc Nhật Bản từ năm 1934 đến 1943. Năm 1943, chính thành phố được đổi tên thành Giang Đảo và trở thành một phần của tỉnh hợp nhất Đông Mạn.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thành phố (một lần nữa được gọi là Diên Cát) trên danh nghĩa là một phần của tỉnh Tùng Giang mới nhưng sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền vào năm 1949, ranh giới của Tùng Giang đã bị thay đổi và Diên Cát trở thành một phần của tỉnh Cát Lâm.

Diên Cát hiện là một phần của châu tự trị dân tộc Triều Tiên Diên Biên, nằm ở phía đông Cát Lâm. Thành phố Diên Cát nằm ở trung tâm, bao quanh bởi năm thành phố cấp quận khác và hai quận nông thôn (xem bản đồ); nó cũng là ghế hành chính của tỉnh.

Sự cố quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Quân đội Bắc Triều Tiên đã kích hoạt vụ thử hạt nhân thứ hai vào tháng 5 năm 2009 gần biên giới Trung Quốc, và vụ nổ đã gây ra một trận động đất mạnh 4,5 độ với một tâm chấn chỉ cách Diên Cát 112 dặm. Sự thiện chí lẫn nhau của người dân Trung Quốc và Triều Tiên trong khu vực bị đặt dấu hỏi, và nhiều người ở Cát Lâm bày tỏ cảm giác lo sợ và bất an mới về nước láng giềng Bắc Triều Tiên.

Một mục sư người Hàn Quốc, Kim Dong-shik, đã bị bắt cóc ở Diên Cát vào tháng 1 năm 2000, một trong nhiều vụ bắt cóc người Hàn Quốc của Bắc Triều Tiên được công bố rộng rãi của chính phủ Hàn Quốc: một nghi phạm người Triều Tiên lai Trung Quốc, được cho là đã được đào tạo ở Bình Nhưỡng, đã bị bắt và bị xử tội vào tháng 12 năm 2004.

Diên Cát là điểm khởi đầu của một cuộc tranh chấp quốc tế vào năm 2009 khi hai nhà báo người Mỹ Euna Lee và Laura Ling bị lính biên phòng Bắc Triều Tiên bắt giữ vào thời điểm, sau khi rời Diên Cát, họ đã vượt qua ranh giới phân định gần đó. Cả hai chỉ được giải thoát sau khi được can thiệp bởi cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton.

Ma túy đá thấm qua biên giới từ Bắc Triều Tiên đã dẫn đến một vấn đề ma túy. Theo báo cáo của viện nghiên cứu Brookings ở Hoa Kỳ: "Tỉnh Cát Lâm không chỉ là điểm trung chuyển quan trọng nhất đối với ma túy từ Bắc Triều Tiên vào Trung Quốc, mà còn trở thành một trong những thị trường lớn nhất ở Trung Quốc về các chất kích thích dạng amphetamine." Diên Cát đã xác nhận gần 2100 người nghiện ma túy trong năm 2010 so với chỉ 44 người vào năm 1990; Các quan chức địa phương thừa nhận rằng con số thực tế có thể cao hơn năm hoặc sáu lần.

Địa lí và khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]
Diên Cát (được ghi chú là YEN-CHI (CHÜ-TZU-CHIEH) 延吉 (局子街)) (1955)

Diên Cát nằm giữa các chân đồi, với khu vực đô thị chính nằm trong một khu vực nhỏ, rất bằng phẳng. Thành phố được bao quanh bởi những ngọn núi rải rác với những cộng đồng nông nghiệp nhỏ, xa xôi. Diên Cát có khí hậu lục địa ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa bốn mùa (được phân loại trong hệ thống Köppen là Dwb), với mùa đông dài, rất lạnh và mùa hè ngắn, nhưng rất ấm áp, ẩm ướt. Mùa xuânmùa thu tạo thành những giai đoạn chuyển tiếp rất ngắn với một lượng mưa nhất định, nhưng không quá nhiều. Nhiệt độ trung bình 24 giờ hàng tháng dao động từ −13,2 °C (8.2 °F) vào tháng 1 đến 21,7 °C (71,1 °F) vào tháng 8, trong khi nhiệt độ trung bình hàng năm là 5,69 °C (42,2 °F) và tổng lượng mưa là 531 mm (20,9 in), phần lớn rơi vào mùa hè. Ánh nắng mặt trời khá thường xuyên nhưng lại ít hơn nhiều ở khu vực trung tâm và phía tây của tỉnh Cát Lâm; với phần trăm ánh nắng mặt trời hàng tháng có thể dao động từ 39% vào tháng 7 đến 62% vào tháng 2, có 2.280 giờ nắng sáng hàng năm.

Dữ liệu khí hậu của Yanji (1981–2010 normals)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình ngày tối đa °C (°F) −6.5
(20.3)
−1.5
(29.3)
5.6
(42.1)
15.3
(59.5)
21.1
(70.0)
24.4
(75.9)
26.7
(80.1)
27.2
(81.0)
22.2
(72.0)
14.8
(58.6)
3.9
(39.0)
−4.4
(24.1)
12.4
(54.3)
Trung bình ngày °C (°F) −13.2
(8.2)
−8.7
(16.3)
−1.4
(29.5)
7.6
(45.7)
13.9
(57.0)
18.2
(64.8)
21.4
(70.5)
21.7
(71.1)
15.1
(59.2)
7.1
(44.8)
−2.7
(27.1)
−10.7
(12.7)
5.7
(42.2)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) −18.7
(−1.7)
−14.9
(5.2)
−7.7
(18.1)
0.4
(32.7)
7.3
(45.1)
13.1
(55.6)
17.3
(63.1)
17.4
(63.3)
9.5
(49.1)
0.8
(33.4)
−7.8
(18.0)
−15.8
(3.6)
0.1
(32.1)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 5.4
(0.21)
5.5
(0.22)
9.9
(0.39)
29.4
(1.16)
58.7
(2.31)
82.3
(3.24)
128.5
(5.06)
108.8
(4.28)
60.6
(2.39)
23.6
(0.93)
12.0
(0.47)
6.7
(0.26)
531.4
(20.92)
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 0.1 mm) 3.1 3.4 5.1 7.8 12.2 15.1 14.3 13.6 10.4 7.1 5.3 3.8 101.2
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 58 55 53 54 61 73 79 79 76 65 61 61 65
Số giờ nắng trung bình tháng 170.4 183.2 225.3 213.2 233.6 190.0 181.0 187.5 197.6 199.5 157.7 140.8 2.279,8
Phần trăm nắng có thể 59 62 61 53 52 42 39 44 53 58 54 50 51
Nguồn: China Meteorological Administration (precipitation days and sunshine 1971–2000)[2][3]

Phân chia hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Diên Cát có sáu nhai đạo và ba trấn.

Các nhai đạo:

  • Henan (河南街道/하남가도), Jiangong (建工街道/건공가도), Xinxing (新兴街道 / 신흥가도), Gongyuan (公园街道/공원가도), Chaoyang (朝阳街道/조양가도), Beishan (北山街道/북산가도)

Các trấn:

  • Yilan (依兰镇/이란진), Sandaowan (三道湾镇/삼도만진), Xiaoying (小营镇/소영진)

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]

Cộng đồng người Triều Tiên ở Trung Quốc có dân số đáng kể ở ít nhất mười một thành phố lớn của Trung Quốc, nhưng không lớn hơn Diên Cát: báo cáo điều tra dân số chính thức của Trung Quốc từ năm 1990 đã thống kê số người Triều Tiên của thành phố lên tới hơn 170.000. Báo cáo điều tra dân số chính thức từ năm 2000 chưa được công bố công khai, nhưng các ước tính hiện tại được cho là trong khoảng một phần ba tổng dân số của thành phố đến hơn một nửa. Cả tiếng Trung Quốctiếng Triều Tiên đều được coi là "ngôn ngữ chính thức" của thành phố: tất cả các dấu hiệu, bảng đường chính thức đều ở dạng văn bản song ngữ, với tiếng Triều Tiên đứng đầu.

Với dân số hiện tại ước tính khoảng bốn trăm nghìn, Diên Cát nhỏ bé hơn nhiều theo tiêu chuẩn của Trung Quốc (nếu so sánh, dân số Thượng Hải là gần hai mươi triệu). Diên Cát cũng có lịch sử tương đối trẻ: thành phố chỉ được phát triển vào thế kỷ XIX và trở thành thủ phủ khu vực sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự tăng trưởng gần đây về du lịch và đầu tư ở nước ngoài đã giúp Diên Cát trở thành một thành phố thịnh vượng đáng chú ý. Nơi đây có rất nhiều kiến ​​trúc hiện đại của thép và kính, và đại lộ rộng được làm sạch một cách rõ rệt và được bảo trì tốt. Trong thời hiện đại, Diên Cát đã trở thành một thành phố của giao thông và thương mại. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Bắc Triều Tiên, chiếm gần 40% thương mại quốc tế của quốc gia này và Diên Cát là trung tâm của phần lớn doanh nghiệp xuyên biên giới.

Ngoài Bắc Triều Tiên, các quốc gia khác đã bắt đầu hợp tác với các nhóm kinh doanh Diên Cát: hiện có hơn năm trăm liên doanh với các đối tác quốc tế đang diễn ra tại Diên Cát. Phần lớn các khoản đầu tư gần đây đã được thực hiện bởi Hàn QuốcĐài Loan, nơi đã giúp đỡ đáng kể trong việc xây dựng ngành du lịch của thành phố.

Diên Cát cũng đánh bóng danh tiếng của mình như một trung tâm du lịch bằng cách tổ chức Hội chợ Du lịch Bắc Trung Quốc hàng năm. Được tổ chức hàng năm kể từ năm 1996, hội chợ là một trong những hội chợ lớn nhất ở nước này, trưng bày hơn một ngàn triển lãm đại diện cho các đối tác văn hóa và kinh tế từ khắp Trung Quốc và nước ngoài. Diên Cát cũng tổ chức Diễn đàn Kinh doanh & Đầu tư Quốc tế Khu vực sông Đồ Môn, một cuộc triển lãm kéo dài ba ngày được tổ chức hàng năm kể từ năm 2000.

Giao thông và cơ sở hạ tầng

[sửa | sửa mã nguồn]

Dịch vụ xe lửa hàng ngày đến hầu hết các trung tâm đô thị lớn của tỉnh đều có sẵn từ Diên Cát, bao gồm chuyến đi 24 giờ đến Bắc Kinh. Một chuyến đi ngắn hơn nhiều đến thủ đô Trung Quốc có thể được thực hiện tại sân bay quốc tế Triều Dương Xuyên Diên Cát, phục vụ khu vực với các chuyến bay chở khách theo lịch trình đến các địa điểm trong nước cũng như đến Nga và Hàn Quốc. Dịch vụ hàng không quốc tế được cung cấp bởi Sân bay quốc tế Long Gia Trường Xuân và việc di chuyển bằng đường bộ đến Trường Xuân đã được tiếp cận dễ dàng hơn kể từ khi Đường cao tốc Trường Xuân-Diên Cát lớn được mở cửa cho công chúng vào năm 2009.

Một đường ống nước và nước thải mới dài 125 dặm (201 km) đã được hoàn thành vào năm 2006, nối Diên Cát và các thành phố lân cận Cát LâmTùng Nguyên đến các nhà máy xử lý nước thải hiện đại dọc theo sông Tùng Hoa.

Kể từ năm 2012, Diên Cát cung cấp lối đi thuận tiện nhất đến Đặc khu kinh tế Rason ở Bắc Triều Tiên.

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]
Đại học Diên Biên (cổng chính)

Đại học Diên Biên là một trường đại học toàn diện ở Diên Cát, được thành lập vào năm 1949[4]; nó cung cấp mười một chương trình học, bao gồm bốn chương trình tiến sĩ. Trường đại học duy trì đội ngũ giảng viên toàn thời gian hơn 1.400, phục vụ một nhóm sinh viên tích cực hơn mười sáu ngàn. Một trong những sinh viên tốt nghiệp của Đại học Diên Biên, chuyên ngành ngôn ngữ Triều Tiên, là Trương Đức Giang, trước đây là phó thư ký của Ủy ban thành phố Diên Cát (1983-1985), và hiện là Phó Thủ tướng của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh.

Diên cát cũng là nhà của Đại học Khoa học và Công nghệ Diên Biên, một trường đại học nghiên cứu kỹ thuật được thành lập vào năm 1990, và Trường Cao đẳng Y tế Diên Biên.

Học viện quốc tế Diên Biên, trường học dành cho người nước ngoài, nằm ở Diên Cát. Ngoài ra còn có một trường học dành cho người Triều Tiên, Trường Quốc tế Triều Tiên tại Diên Biên.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]

Diên Cát tổ chức các sự kiện thể thao tại Sân vận động Nhân dân 50.000 chỗ ngồi[5]. Thành phố này là điểm dừng chân thứ mười tám cho cuộc rước đuốc Olympic tại lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2008[6][7].

Các quan chức của Sách Kỷ lục Guinness đã đến thăm sân vận động điền kinh tại Đại học Diên Biên vào tháng 7 năm 2010 để chứng kiến một kỷ lục thế giới mới được thiết lập: hơn một nghìn sinh viên đồng loạt tâng những quả bóng đá bằng chân trong hơn mười giây[8].

Hai kênh truyền hình tiếng Triều Tiên được sản xuất tại địa phương và các kênh khác có thể được phát sóng miễn phí từ cả CHDCND Triều Tiên và Hàn Quốc. Ẩm thực Triều Tiên rất phổ biến và có mặt ở khắp mọi nơi. Một lễ hội dân gian hàng năm của Triều Tiên diễn ra vào tháng 9 hàng năm tại Diên Cát, với âm nhạc, khiêu vũ, hội họa và thể thao truyền thống của Triều Tiên.

Karaoke khá phổ biến ở Diên Cát, và thành phố thậm chí còn có một cảnh beatbox ngầm đang phát triển, được ghi lại bởi nhà làm phim Lưu Phong trong Yan Bian Box (2007).

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Ministry of Housing and Urban-Rural Development biên tập (2019). China Urban Construction Statistical Yearbook 2017. Beijing: China Statistics Press. tr. 50. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2020.
  2. ^ 中国气象数据网 - WeatherBk Data (bằng tiếng Trung). China Meteorological Administration. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  3. ^ 中国地面国际交换站气候标准值月值数据集(1971-2000年). China Meteorological Administration. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2010.
  4. ^ “Yanbian University: A Brief Introduction”. Yanbian University. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
  5. ^ “Stadiums in China”. World Stadiums.com. 2007. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
  6. ^ “Torch Relay: Planned Route”. Beijing2008.cn. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  7. ^ “Olympic torch relay in Yanji concludes”. Beijing2008.cn. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
  8. ^ “World record ball-juggling made in China”. China Daily. ngày 11 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan