"Girl on Fire" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Alicia Keys | ||||
từ album Girl on Fire | ||||
Phát hành | 4 tháng 9 năm 2012 | |||
Thu âm | 2012 | |||
Thể loại | R&B | |||
Thời lượng | 3:44 | |||
Hãng đĩa | RCA | |||
Sáng tác |
| |||
Sản xuất |
| |||
Thứ tự đĩa đơn của Alicia Keys | ||||
| ||||
Video âm nhạc | ||||
"Girl on Fire" trên YouTube |
"Girl on Fire" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Alicia Keys nằm trong album phòng thu thứ năm của cô cùng tên (2012). Nó được phát hành vào ngày 4 tháng 9 năm 2012 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album RCA Records, và là tác phẩm phát hành đầu tiên của Keys với hãng đĩa sau sự giải thể từ hãng đĩa ban đầu của cô J Records dưới sự tái cơ cấu tổ chức tại Sony Music Entertainment. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi Keys, Salaam Remi và Jeff Bhasker, những cộng tác viên quen thuộc xuyên suốt sự nghiệp của nữ ca sĩ, trong đó sử dụng đoạn nhạc mẫu từ bài hát năm 1980 của Billy Squier "The Big Beat", được viết lời bởi chính ông. Được lấy cảm hứng từ việc kết hôn với nhà sản xuất thu âm Swizz Beatz và sinh con trai đầu lòng Egypt, "Girl on Fire" là một bản R&B ballad với mục đích "tôn vinh những thành tựu của phụ nữ ở khắp mọi nơi", mang nội dung đề cập đến việc một cô gái luôn hừng hực khí thế trong bất kì công việc nào cô làm, đã thu hút nhiều sự so sánh với những đĩa đơn trước đây của nữ ca sĩ về mặt âm nhạc, bao gồm "No One" và "Try Sleeping with a Broken Heart".
Hai phiên bản phối lại khác nhau cho "Girl on Fire" đã được phát hành, bao gồm phiên bản "Inferno" với sự tham gia góp giọng từ Nicki Minaj và bản phối mới "Bluelight". Sau khi phát hành, bài hát nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao thông tiệp tích cực, chất giọng nội lực của Keys cũng như quá trình sản xuất nó. Ngoài ra, "Girl on Fire" còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm một đề cử tại giải thưởng âm nhạc Billboard năm 2013 cho Top Bài hát R&B. Bài hát cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Áo, Slovakia và Hàn Quốc, đồng thời lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Đan Mạch, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ 11 của Keys vươn đến top 20 tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 6 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Video ca nhạc cho "Girl on Fire" được đạo diễn bởi Sophie Muller, trong đó bao gồm những cảnh Keys hóa thân thành một người mẹ luôn tận tâm trong công việc hằng ngày lẫn chăm sóc con cái và người mẹ của cô, đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình. Để quảng bá bài hát, nữ ca sĩ đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm Good Morning America, Late Show with David Letterman, Skavlan, The Tonight Show with Jay Leno, The X Factor US, The X Factor UK, Wetten, dass..?, giải Video âm nhạc của MTV năm 2012 (với Minaj), giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2012, iTunes Festival năm 2012, giải thưởng âm nhạc NRJ năm 2013, giải Grammy lần thứ 55 (với Maroon 5) và giải Sự lựa chọn của Công chúng lần thứ 39, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của cô. Kể từ khi phát hành, "Girl on Fire" đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Dolly Parton, Pink, Christina Grimmie, Misha B, Angelica Hale và dàn diễn viên của Glee, cũng như xuất hiện trong những tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm Blended, EastEnders, I Feel Pretty và Salve Jorge.
|
|
Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Girl on Fire, RCA Records.[6]
|
|
Xếp hạng tuần[sửa | sửa mã nguồn]
|
Xếp hạng cuối năm[sửa | sửa mã nguồn]
|
Quốc gia | Chứng nhận | Số đơn vị/doanh số chứng nhận |
---|---|---|
Úc (ARIA)[75] | 5× Bạch kim | 350.000 |
Áo (IFPI Áo)[76] | Vàng | 15.000* |
Bỉ (BEA)[77] | Vàng | 15.000* |
Canada (Music Canada)[78] | 2× Bạch kim | 20.000^ |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[79] | Vàng | 15.000^ |
Phần Lan (Musiikkituottajat)[80] | Vàng | 14,713[80] |
Pháp (SNEP)[81] | — | 108,400[50][64] |
Đức (BVMI)[82] | Bạch kim | 500.000^ |
Ý (FIMI)[83] | Bạch kim | 30.000* |
Hà Lan (NVPI)[84] | Vàng | 10.000^ |
México (AMPROFON)[85] | Bạch kim | 60.000 |
New Zealand (RMNZ)[86] | Bạch kim | 15.000* |
Hàn Quốc (Gaon Chart) | — | 240,153[87] |
Thụy Sĩ (IFPI)[88] | Bạch kim | 30.000^ |
Anh Quốc (BPI)[89] | Vàng | 400.000 |
Hoa Kỳ (RIAA)[91] | — | 3,513,000[90] |
Streaming | ||
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[79] | Bạch kim | 1.800.000^ |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Khu vực | Ngày | Định dạng | Phiên bản | Hãng đĩa |
---|---|---|---|---|
Pháp | 4 tháng 9 năm 2012 | Tải kĩ thuật số | Sony Music | |
Đức | Inferno remix[95] | |||
Hoa Kỳ | RCA Records | |||
11 tháng 9 năm 2012 | Inferno phối lại | |||
Urban AC airplay[97] | Bluelight phối lại | |||
16 tháng 10 năm 2012 | Mainstream airplay[98] |
| ||
Hot Adult Contemporary airplay[99] | Đĩa đơn chính | |||
Đức | 2 tháng 11 năm 2012 | CD[4] |
|
Sony Music |
Vương quốc Anh | 18 tháng 11 năm 2012 | EP nhạc số[5] |
|
RCA Records |
Hoa Kỳ | 18 tháng 3 năm 2013 | Adult Contemporary airplay[100] | Đĩa đơn chính |
<ref>
không hợp lệ: tên “DenmarkAlicia KeysGirl on FiresingleCertRef” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác