Jodie Anna Burrage (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1999) là một nữ vận động viên quần vợt người Anh Quốc.[3][4][5][6][7] Cô có thứ hạng cao nhất ở nội dung đơn trên bảng xếp hạng WTA là thứ 94, đạt được vào ngày 31 tháng 8 năm 2023, và thứ hạng đôi cao nhất là thứ 329, đạt được vào ngày 12 tháng 7 năm 2021. Cô đã giành được 5 danh hiệu đơn và 5 danh hiệu đôi tại ITF Circuit.
Vào tháng 1 năm 2021, cô ra mắt nhánh đấu chính WTA Tour ở nội dung đánh đơn tại Abu Dhabi Open như một người thua cuộc may mắn. Vào tháng 6, cô đã có trận ra mắt Grand Slam, sau khi được trao một ký tự đại diện cho Giải quần vợt Wimbledon 2021.[10][11]
Tại Eastbourne International, cô đã đánh bại hạt giống hàng đầu và số 4 thế giới, Paula Badosa.[12][13][14] Kết quả là Burrage đã lọt vào top 150, ở vị trí thứ 141 thế giới trong bảng xếp hạng đơn WTA.[15] Vào ngày 26 tháng 9, cô đạt thứ hạng cao nhất trong sự nghiệp là thứ 137.
2023: Trận chung kết WTA đầu tiên và chiến thắng lớn, top 100
Tại Nottingham Open, cô ấy lọt vào tứ kết WTA Tour đầu tiên sau khi đánh bại hạt giống số ba Magda Linette.[16] Cô tiếp tục đánh bại một vận động viên Ba Lan khác, Magdalena Fręch để lọt vào bán kết WTA lần đầu tiên trong sự nghiệp.[17] Cuối cùng, cô đánh bại Alizé Cornet để thiết lập một trận chung kết toàn Anh đầu tiên kể từ năm 1977 với Katie Boulter.[18][19]
Tại Wimbledon, cô giành chiến thắng đầu tiên khi đánh bại Caty McNally, trước khi thua Daria Kasatkina ở vòng hai, trong các set liên tiếp. Kết quả là cô đã lọt vào top 100 trong bảng xếp hạng.
Burrage giành được chiến thắng đầu tiên tại US Open, đánh bại tay vợt số 38 thế giới Anna Blinkova 6-3, 6-4 ở vòng đầu tiên, trước khi thua với tay vợt số 2 thế giới Aryna Sabalenka.
(VĐ) Vô địch giải; vào tới (CK) chung kết, (BK) bán kết, (TK) tứ kết; (V#) các vòng 4, 3, 2, 1; thi đấu (RR) vòng bảng; vào tới vòng loại (Q#) vòng loại chính, 2, 1; (A) không tham dự giải; thi đấu tại (Z#) Nhóm khu vực (chỉ ra số nhóm) hoặc (PO) play-off Davis/Fed Cup; giành huy chương (G) vàng, (F-S) bạc hay (SF-B) đồng tại Olympic; Một giải (NMS) Masters Series/1000 bị giáng cấp; hoặc (NH) giải không tổ chức. SR=tỉ lệ vô địch (số chức vô địch/số giải đấu)
Để tránh nhầm lẫn hoặc tính thừa, bảng biểu cần được cập nhật khi giải đấu kết thúc hoặc vận động viên đã kết thúc quá trình thi đấu tại giải.
Chỉ những kết quả bốc thăm nhánh chính trong WTA Tour, các giải Grand Slam, Fed Cup/Billie Jean King Cup và Thế vận hội Olympic mới được tính vào thành tích thắng-thua.
^Sự kiện Premier 5 đầu tiên trong năm đã chuyển đổi qua lại giữa Dubai Tennis Championships và Qatar Ladies Open kể từ năm 2009. Dubai được phân loại là sự kiện Premier 5 từ 2009–2011 trước khi được kế nhiệm bởi Doha trong giai đoạn 2012–2014. Vào năm 2015, Dubai đã giành lại vị trí Premier 5 trong khi Doha bị hạ xuống vị trí Premier. Các giải đấu Premier 5 được phân loại lại thành WTA 1000 vào năm 2021.