Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về Tâm lý học hoặc/và y học trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Rối loạn lo âu lan tỏa | |
---|---|
Chuyên khoa | tâm thần học, tâm lý học |
ICD-10 | F41.1 |
ICD-9-CM | 300.02 |
Rối loạn lo âu lan tỏa (tiếng Anh: generalized anxiety disorder) là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn lo âu có đặc điểm cơ bản là sự lo âu lan tỏa và dai dẳng đồng thời không giới hạn và nổi bật trong bất cứ tình huống đặc biệt nào[1]. Triệu chứng thể chất thường đi kèm với lo âu bao gồm bất an, dễ mệt mỏi, run rẩy, căng thẳng bắp thịt, vã mồ hôi, choáng váng, hồi hộp, chóng mặt, đầu óc trống rỗng, đánh trống ngực, khó chịu ở vùng bụng, khó nuốt, buồn nôn, tính tình trở nên cáu kỉnh. Tuy nhiên cần thấy được sự khác nhau giữa lo âu thông thường và lo âu bệnh lý. Khi cảm thấy lo âu rất nhiều mà không do nguyên nhân nào rõ rệt, không còn khả năng tự kiểm soát được bản thân, lo âu làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng ngày thì đó là bệnh lý. Cần phân biệt rối loạn lo âu lan tỏa với các rối loạn lo âu khác vì chúng thường có một số điểm chung dễ gây nhầm lẫn. Ám ảnh sợ xã hội, ám ảnh sợ khoảng trống, ám ảnh sợ chuyên biệt đều có đặc điểm chung là tình huống gây lo âu đều cụ thể trong một hoặc một nhóm hoàn cảnh, đối tượng nhất định trong khi đó rối loạn lo âu lan tỏa không khu trú ở một tình huống cụ thể nào, cái tên "lan tỏa" của nó cũng bắt nguồn từ tính chất này. Bệnh còn có tên khác là rối loạn lo âu toàn thể.
Với những người bị rối loạn lo âu lan tỏa, mỗi ngày diễn ra họ đều phải trải qua cảm xúc lo lắng và căng thẳng quá mức, mặc dù có rất ít hoặc không có vấn đề nghiêm trọng nào. Họ hay dự đoán các sự kiện bất trắc và quá quan tâm đến các vấn đề sức khỏe, tiền bạc, gia đình, hoặc khó khăn trong công việc... Khi mức độ lo lắng ở tầm vừa phải, người mắc rối loạn lo âu lan tỏa có thể đảm bảo chức năng xã hội và giữ một công việc bình thường. Tuy nhiên người bệnh sẽ gặp khó khăn thậm chí trong việc thực hiện các hoạt động đơn giản hàng ngày nếu lo lắng là nghiêm trọng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán cho rối loạn lo âu lan tỏa theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần của Hoa Kỳ (DSM-IV-TR)[3]:
Rối loạn lo âu lan tỏa hiếm khi là rối loạn duy nhất ở người bệnh, nó thường đi kèm với các loại rối loạn lo âu khác, trầm cảm, hoặc lạm dụng chất[2].
Ở người mắc rối loạn lo âu lan tỏa thì trầm cảm là bệnh tâm thần thường kết hợp nhất, xảy ra gần 2/3 các trường hợp. Rối loạn hoảng loạn có ở 1/4 số bệnh nhân có rối loạn lo âu lan tỏa, lạm dụng rượu có nhiều hơn 1/3 các trường hợp. Các nghiên cứu gần đây trên trẻ sinh đôi cho thấy xu hướng chung các yếu tố di truyền của cả hai rối loạn lo âu lan tỏa và trầm cảm, và một báo cáo mới đây đề nghị một khác biệt di truyền về gien vận chuyển serotonin có thể góp phần ở người có cả hai bệnh lý này[3]. Theo thống kê riêng ở Mỹ của dự án nghiên cứu National Comorbidity Survey trong năm 2005 (một dự án nghiên cứu về tỉ lệ các rối loạn tâm thần ở người Mỹ) thì 58% bệnh nhân được chẩn đoán trầm cảm có rối loạn lo âu, trong số đó 17,2% là rối loạn lo âu lan tỏa, 9,9% là rối loạn hoảng sợ[4].
Bệnh có thể ảnh hưởng đến bất cứ lứa tuổi nào và thường khởi phát trước tuổi 25. Phụ nữ có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn từ 2 đến 3 lần so với nam giới[5]. Khi không được điều trị, tiến triển điển hình là mãn tính, có tỷ lệ hồi phục thấp và tỷ lệ tái phát trung bình[3].
Nói chung rối loạn lo âu thường kết hợp với nhiều rối loạn tâm thần khác và tồn tại sự khác biệt nhất định giữa các nước trong tiêu chuẩn đánh giá điều đó gây khó khăn trong việc thống kê chính xác, bởi vậy các con số dưới đây chỉ mang tính tham khảo:
Cũng giống như các rối loạn tâm thần khác, nguyên nhân của rối loạn lo âu lan tỏa chưa được biết rõ. Các nhà nghiên cứu cho thấy bệnh có thể liên quan đến các chất hoá học trong não thường gọi là các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, GABA (gamma-aminobutyric acid) và norepinephrine. Tuy nhiên, nguyên nhân có thể là một sự phối hợp của những quá trình sinh học trong cơ thể, các yếu tố di truyền, môi trường sống, nhân cách. Nhiều bệnh nhân cho rằng những nỗi lo âu của họ bắt đầu từ thời thơ ấu, nhưng chúng cũng vẫn có thể xảy ra ở lúc trưởng thành.
Một số yếu tố tăng nguy cơ sinh bệnh:
Phương pháp tâm lý trị liệu được dùng để điều trị bệnh nhân mắc rối loạn lo âu lan tỏa là liệu pháp hành vi nhận thức (cognitive behavioral therapy - CBT). Trị liệu giúp bệnh nhân hiểu được tác động của suy nghĩ và cảm xúc lên hành vi từ đó thay các suy nghĩ tích cực cho những suy nghĩ tiêu cực dẫn đến lo âu[11]. Điều đó giúp bệnh nhân đối diện với sợ hãi và dần dần cảm thấy thoải mái hơn trong các tình huống như vậy đồng thời thực hành các kỹ năng mà họ được học. Bệnh nhân ghi chép suy nghĩ của họ và cảm xúc của họ trong nhật ký, ghi chú các tình huống mà họ cảm thấy lo âu và các hành vi làm giảm lo âu, thường gồm 6 đến 12 buổi trị liệu cá nhân, cách tuần[3]. Liệu pháp hành vi nhận thức có thể là liệu pháp duy nhất hoặc kết hợp với dùng thuốc[12]. CBT có hiệu quả với 1/3 số bệnh nhân trong khi đó cũng ngần ấy bệnh nhân không đáp ứng với bất kỳ trị liệu nào[13].
Dùng thuốc trong điều trị rối loạn lo âu lan tỏa chỉ là thứ yếu, tuy vậy việc dùng thuốc có thể cần thiết nếu các triệu chứng lo âu rõ rệt vẫn tồn tại mặc dù đã thực hiện các trị liệu thuần túy tâm lý khác[10].
Điều đặc biệt cần phải lưu ý là: Không được tự ý mua và sử dụng thuốc khi không có chỉ định của bác sĩ chuyên môn, bởi vì việc tự điều trị theo kiểu này thường để lại các hậu quả nghiêm trọng do bạn không biết cách sử dụng thuốc cũng như những tác dụng phụ xấu có thể xảy đến nằm ngoài tầm kiểm soát.
|isbn=
: giá trị tổng kiểm (trợ giúp).