Sevilla

Seville / Sevilla
Sevilla
Sevilla
Từ trên xuống: Nhà thờ chính tòa Sevilla, tháp canh Torre del Oro và sông Guadalquivir, các khu vườn trong dinh thự Alcázar, quảng trường Plaza de España, Metropol ParasolCầu Triana.
Hiệu kỳ của Seville / Sevilla
Hiệu kỳ

Ấn chương
Khẩu hiệuNO8DO
(Latinh của “từ tiếng Andalusia: "No ma dejado" - Tôi không bị bỏ rơi”)
Seville / Sevilla trên bản đồ Thế giới
Seville / Sevilla
Seville / Sevilla
Quốc gia Tây Ban Nha
VùngAndalucía
Thành lậpthế kỷ 8-9 trCN
Thủ phủSeville city
Chính quyền
 • Thị trưởngAlfredo Sánchez Monteseirín (PSOE)
Diện tích
 • Đất liền140 km2 (50 mi2)
Độ cao7 m (23 ft)
Dân số (2007)
 • Tổng cộng699,145 (khoảng 1,5 triệu ở vùng đô thị)
 • Mật độ4,947,6/km2 (12,814/mi2)
Múi giờUTC+1, UTC+2
 • Mùa hè (DST)CEST (GMT +2) (UTC+2)
Mã bưu chính41001-41080
Mã điện thoại95
Thành phố kết nghĩaAngers, Baler, Tarija, Barcelona, Buenos Aires, Columbus, Guadalajara, La Habana, Thành phố Kansas, Rabat, Tifariti, Thành phố Hồ Chí Minh, Kraków, Cartagena, Colombia, Caltanissetta, Roma, Jerez de la Frontera, Thành phố Kansas, Popayán, Isla Cristina, Berlin, Iquique, Rostov trên sông Đông
Ngôn ngữ bản xứTiếng Tiếng Tây Ban Nha
Tọa độ({{#coordinates:}}: một trang không thể chứa nhiều hơn một thẻ chính)
Năm mật độ dân số2007
Websitehttp://www.sevilla.org

Sevilla là thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha, là thành phố lớn nhất và thủ phủ của vùng Andalucíatỉnh Sevilla, nằm ở hạ lưu sông Guadalquivir, nơi có cảng cho tàu biển, phía tây nam bán đảo Iberia.

Seville có dân số thành thị khoảng 701.000 người vào năm 2022 và dân số khoảng 1,5 triệu người, là thành phố lớn nhất ở Andalusia, thành phố lớn thứ tư ở Tây Ban Nha và đô thị đông dân thứ 26 trong Liên minh Châu Âu. Khu phố cổ với diện tích 4 kilômét vuông (2 dặm vuông Anh) được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới bao gồm ba công trình: quần thể cung điện Alcázar - hoàng cung được người Moors xây năm 1181, Nhà thờ chính tòa SevillaKho lưu trữ chung Ngoại Ấn. Cảng Seville cách Đại Tây Dương khoảng 80 kilômét (50 dặm) là cảng sông duy nhất ở Tây Ban Nha.[1]

Thành phố này xuất khẩu rượu vang, dầu ô liu, cam và mỏ kim loại. Đây cũng là nơi có các ngành công nghiệp đóng hộp cá, chưng cất rượu, sản xuất gang thép, đồ sành sứ, thuốc lá, xà phòng. Du lịch cũng là một ngành kinh tế quan trọng.

Các di tích của nền văn minh người Moor tại thành phố này còn lưu lại ở các tuyến phố nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo, các tòa nhà trắng, các đài nước và các tường thành một thời bao quanh thành phố. Sevilla có công trình kiến trúc nổi bật là xây theo phong cách Gothic trên nền một nhà thờ Hồi giáo thế kỷ 12, được khởi công vào năm 1402 và hoàn thành vào năm 1519. Nhà thờ này lưu giữ nhiều tác phẩm hội họa nổi tiếng thế giới của các họa sĩ Tây Ban Nha El Greco, Murillo, Zurbarán. Tháp chuông Giralda của nhà thờ này cao hơn 91 m. Thành phố này có Đại học Sevilla (tiếng Tây Ban Nha: Universidad de Sevilla) được thành lập năm 1502. Thư viện thành phố này lưu trữ nhiều sách, ghi chép và tài liệu về lịch sử và sự cai trị của đế quốc Tây Ban Nha ở châu Mỹ.

Thời cổ gọi là Hispalis, Seville đã bị Julius Caesar chiếm vào năm 45 TCN, sau thế kỷ 4, Seville đã lần lượt bị người Vandal, Visigoth và Moor chiếm giữ. Thành phố đã trở thành một trung tâm văn hóa phát triển dưới thời người Moor từ năm 712 đến năm 1248. Sau đó thành phố bị Ferdinand III của Castile và León chiếm giữ. Việc Tây Ban Nha chiếm châu Mỹ và bắt đầu hoạt động thương mại năm 1492 đã mang lại lợi ích cho thành phố này khi thương mại xuyên châu lục phát triển nhanh, biến Seville trở thành một trong những thành phố lớn nhất ở Tây Âu vào thế kỷ 16. Đến thế kỷ 17 và 18, thành phố Seville đã trở thành trung tâm văn hóa hàng đầu ở Tây Ban Nha.

Đến thế kỷ 20, Seville chứng kiến những thăng trầm của Nội chiến Tây Ban Nha, những cột mốc văn hóa quyết định như Triển lãm Iberia-Mỹ năm 1929Expo '92, cuộc bầu cử thành phố trở thành thủ phủ của Vùng tự trị Andalusia.

cầu Alamillo

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]
Dữ liệu khí hậu của Sevilla (1981–2010)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 24.2
(75.6)
28.0
(82.4)
32.9
(91.2)
35.4
(95.7)
39.1
(102.4)
45.2
(113.4)
46.6
(115.9)
45.9
(114.6)
42.6
(108.7)
36.6
(97.9)
31.2
(88.2)
24.5
(76.1)
46.6
(115.9)
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 16.0
(60.8)
18.1
(64.6)
21.9
(71.4)
23.4
(74.1)
27.2
(81.0)
32.2
(90.0)
36.0
(96.8)
35.5
(95.9)
31.7
(89.1)
26.0
(78.8)
20.2
(68.4)
16.6
(61.9)
25.4
(77.7)
Trung bình ngày °C (°F) 10.9
(51.6)
12.5
(54.5)
15.6
(60.1)
17.3
(63.1)
20.7
(69.3)
25.1
(77.2)
28.2
(82.8)
27.9
(82.2)
25.0
(77.0)
20.2
(68.4)
15.1
(59.2)
11.9
(53.4)
19.2
(66.6)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) 5.7
(42.3)
7.0
(44.6)
9.2
(48.6)
11.1
(52.0)
14.2
(57.6)
18.0
(64.4)
20.3
(68.5)
20.4
(68.7)
18.2
(64.8)
14.4
(57.9)
10.0
(50.0)
7.3
(45.1)
13.0
(55.4)
Thấp kỉ lục °C (°F) −4.4
(24.1)
−5.5
(22.1)
−2.0
(28.4)
1.0
(33.8)
3.8
(38.8)
8.4
(47.1)
11.4
(52.5)
12.0
(53.6)
8.6
(47.5)
2.0
(35.6)
−1.4
(29.5)
−4.8
(23.4)
−5.5
(22.1)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 66
(2.6)
50
(2.0)
36
(1.4)
54
(2.1)
30
(1.2)
10
(0.4)
2
(0.1)
5
(0.2)
27
(1.1)
68
(2.7)
91
(3.6)
99
(3.9)
539
(21.2)
Số ngày giáng thủy trung bình (≥ 1.0 mm) 6.1 5.8 4.3 6.1 3.7 1.3 0.2 0.5 2.4 6.1 6.4 7.5 50.5
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 71 67 59 57 53 48 44 48 54 62 70 74 59
Số giờ nắng trung bình tháng 183 189 220 238 293 317 354 328 244 216 181 154 2.917
Nguồn: Agencia Estatal de Meteorología[2][3]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Seville có lịch sử gần 2.200 năm tuổi. Các nền văn minh đã góp phần vào sự phát triển của Seville đã để lại cho thành phố một cá tính riêng biệt, một trung tâm lịch sử lớn và được bảo tồn tốt.

Thời cổ đại

[sửa | sửa mã nguồn]
Kho báu El Carambolo, thuộc về ngôi đền cổ của người Phoenicia hoặc Tartessos nằm trên ngọn đồi mang tên kho báu này.
Một phần của Caños de Carmona

Nguồn gốc ban đầu của thành phố nằm ở một khu vực giống như bán đảo nằm bên bờ trái sông Guadalquivir.[4] Tên gọi ban đầu của khu định cư có thể là Hisbaal, liên quan đến Baal, một trong những vị thần quan trọng nhất trong hệ thần của nền văn minh Phoenicia. Hiện nay, vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học về việc liệu nơi đây được thành lập bởi người Phoenicia hay người Tartessos. Theo những người ủng hộ giả thuyết của người Phoenicia, Tartessos không phải là một dân tộc mà chỉ là cái tên mà các nguồn tài liệu Hy Lạp đặt cho khu vực ở phía tây nam bán đảo.

Năm 206 TCN, trong cuộc Chiến tranh Punic lần thứ hai, quân đội La Mã dưới sự chỉ huy của tướng Scipio Africanus đã tiến vào khu vực này và đánh bại người Carthage đang sinh sống và bảo vệ khu vực. Scipio đã quyết định thành lập Itálica, nơi sinh của hoàng đế La Mã Trajan, và có thể cả Hadrianus[5]Theodosius I Đại Đế, tại khu vực Itálica gần đó (nay là thị trấn Santiponce).

Theo Tổng giám mục người Visigoth, Thánh Isidoro de Sevilla, tại nơi sau này trở thành thành phố Sevilla, Julius Caesar đã thành lập Colonia Iulia Romula Hispalis, La Mã hóa tên gọi của khu dân cư bản địa ban đầu của thành phố (Ispal) thành Hispalis, thêm vào đó chữ Iulia theo tên của ông và Romula theo tên của Roma, một cách đặt tên thường thấy ở các thuộc địa La Mã. Theo nhà sử học Antonio Caballos Rufino, thuộc địa La Mã này được thiết lập bởi phó tổng trấn Gaius Asinius Pollio.

Vào giữa thế kỷ I TCN, Hispalis đã có tường thành và một khu diễn đàn, với hoạt động thương mại cảng biển sôi động, sự mở rộng đô thị và định hình các khu vực chức năng được củng cố vào giữa thế kỷ I SCN. Với sự tái tổ chức của đế chế, thành phố trẻ này trở thành thủ phủ của một trong bốn conventus iuridici thuộc tỉnh Baetica, nơi Corduba là thủ phủ chính. Khu vực quanh con phố hiện nay là Mármoles được cho là vị trí của khu diễn đàn thời kỳ La Mã đế quốc, đặc biệt các khu vực đô thị liên quan đến hoạt động cảng và thương mại rất phát triển vào thời kỳ đế chế La Mã cao điểm.

Đạo Kitô giáo đã đến thành phố từ sớm, và vào thế kỷ III, hai chị em thánh Justa và Rufina (hiện là một trong những thánh bảo trợ của thành phố) được cho là đã bị tử vì đạo vì từ chối thờ cúng nữ thần Astarté theo truyền thuyết.

Thời Trung Cổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau cuộc chinh phục Hồi giáo trên bán đảo Iberia, Sevilla (Spalis) dường như đã bị Musa ibn Nusayr chiếm đóng vào cuối mùa hè năm 712 khi ông trên đường đến Mérida.[6] Tuy nhiên, thành phố phải được tái chiếm vào tháng 7 năm 713 bởi quân đội do con trai ông, Abd al-Aziz ibn Musa, chỉ huy, vì người dân Visigoth đã chạy trốn đến Beja trước đó đã quay trở lại Sevilla khi Musa rời đi Mérida.[6] Trụ sở của Wali của Al-Andalus (đơn vị hành chính thuộc Vương triều Umayyad) được đặt tại thành phố này cho đến năm 716,[6] khi thủ đô của Al-Andalus được chuyển đến Córdoba.[7]

Sevilla (Ishbīliya) đã bị người Viking cướp phá vào giữa thế kỷ 9. Sau khi người Viking đến vào ngày 25 tháng 9 năm 844, Sevilla bị chiếm vào ngày 1 tháng 10 và bị chiếm đóng trong 40 ngày trước khi quân xâm lược rút lui.[8] Trong thời kỳ cai trị của Umayyad, dưới bối cảnh Andalusi-Arab, phần lớn dân cư là những người Muladi (người cải sang Hồi giáo), cùng với các cộng đồng thiểu số Kitô giáo và Do Thái. Đến thế kỷ 12, khi người Almohad đến, Sevilla vẫn là nơi đặt Tổng giám mục của cộng đồng Kitô giáo[9], nhân vật tôn giáo Kitô giáo cao nhất tại Al-Andalus. Tuy nhiên, việc di dời di vật của Thánh Isiđôrô đến León vào khoảng năm 1063, trong thời kỳ taifa, đã gợi ý về tình hình tồi tệ hơn đối với cộng đồng Kitô giáo địa phương.[10]

Một vương quốc taifa hùng mạnh với thủ đô ở Sevilla đã xuất hiện sau năm 1023, trong bối cảnh cuộc nội chiến ở Al-Andalus. Dưới sự cai trị của triều đại Abbadid, vương quốc này mở rộng bằng cách sáp nhập các taifa lân cận nhỏ hơn. Trong thời kỳ taifa, Sevilla trở thành một trung tâm học thuật và văn học quan trọng. Sau vài tháng bị bao vây, Sevilla bị người Almoravid chinh phục vào năm 1091.[11]

Thành phố rơi vào tay người Almohad vào ngày 17 tháng 1 năm 1147 (12 Shaʽban 541).[12] Sau một giai đoạn ổn định ban đầu của người Almohad ở Sevilla và một thời gian ngắn di chuyển thủ đô của Al-Andalus đến Córdoba vào năm 1162 (dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho Sevilla, với tình trạng mất dân cư và đói kém)[13], Sevilla trở thành trụ sở chính thức của phần Andalusi thuộc Đế chế Almohad vào năm 1163[14][15], trở thành thủ đô song song với Marrakesh. Người Almohad đã thực hiện một đợt đổi mới đô thị lớn[16]. Đến cuối thế kỷ 12, khu vực được bao quanh bởi tường thành có lẽ chứa khoảng 80.000 cư dân.[17]

The Patio de las Doncellas trong Alcázar của Sevilla

Trong bối cảnh rộng hơn của cuộc chinh phục thung lũng Guadalquivir của Castile-Leon vào thế kỷ 13, Ferdinand III đã bao vây Sevilla vào năm 1247. Một cuộc phong tỏa hải quân được thực hiện để ngăn chặn viện trợ cho thành phố[18]. Thành phố đầu hàng vào ngày 23 tháng 11 năm 1248[19], sau mười lăm tháng bị bao vây. Điều kiện đầu hàng yêu cầu toàn bộ dân cư rời khỏi Sevilla, và các nguồn tin đương thời xác nhận rằng một cuộc di dời hàng loạt người dân khỏi thành phố đã diễn ra.[20]

Sự phát triển của thành phố tiếp tục sau cuộc chinh phục của Castilla vào năm 1248. Các công trình công cộng được xây dựng, bao gồm các nhà thờ—nhiều nhà thờ trong số đó được xây dựng theo phong cách MudéjarGothic, như Nhà thờ lớn Sevilla, được xây dựng vào thế kỷ 15 theo kiến trúc Gothic[21]. Nhiều công trình của người Moor được chuyển đổi thành các công trình Công giáo, như thông lệ của Giáo hội Công giáo trong thời kỳ Reconquista. Cung điện của người Moor trở thành nơi ở hoàng gia Castilla, và dưới triều đại của Pedro I, nó được thay thế bởi Alcázar (các tầng trên hiện vẫn được hoàng gia Tây Ban Nha sử dụng làm nơi ở chính thức tại Sevilla).

Nhà thờ chính tòa Sevilla từ Đại lộ Constitución

Trong cuộc tàn sát người Do Thái năm 1391, tất cả các hội đường ở Sevilla bị chuyển đổi thành nhà thờ (được đổi tên thành Santa María la Blanca, San Bartolomé, Santa Cruz, và Convento Madre de Dios). Đất đai và cửa hàng của khu Do Thái (nằm ở khu phố Santa Cruz ngày nay) bị Giáo hội chiếm đoạt và nhiều nhà của người Do Thái bị đốt cháy. 4000 người Do Thái đã bị giết trong cuộc tàn sát, và nhiều người khác bị buộc phải cải đạo.

Tòa án đầu tiên của Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha được thành lập ở Sevilla vào năm 1478. Nhiệm vụ chính của nó là đảm bảo rằng tất cả những người cải đạo danh nghĩa thực sự sống như những người Kitô giáo, không lén lút thực hành Do Thái giáo. Ban đầu, hoạt động của Tòa án Dị giáo chỉ giới hạn ở các giáo phận SevillaCórdoba, nơi tu sĩ dòng Đa Minh Alonso de Ojeda đã phát hiện ra hoạt động của những người cải đạo.[22] Buổi **Auto de Fé** đầu tiên diễn ra ở Sevilla vào ngày 6 tháng 2 năm 1481, khi sáu người bị thiêu sống. Chính Alonso de Ojeda đã giảng bài trong buổi này. Tòa án Dị giáo sau đó phát triển nhanh chóng. Quảng trường San Francisco trở thành nơi diễn ra các buổi Auto-da-fé. Đến năm 1492, các tòa án đã có mặt tại tám thành phố Castile: Ávila, Córdoba, Jaén, Medina del Campo, Segovia, Sigüenza, Toledo và Valladolid.[23] Theo sắc lệnh Alhambra, tất cả người Do Thái phải cải đạo sang Công giáo hoặc bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha.[24]

Thời kỳ cận đại

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau cuộc khám phá Tân Thế Giới của Christopher Columbus, Sevilla được chọn làm trụ sở của Casa de Contratación (Cơ quan Quản lý Thương mại Đường biển) vào năm 1503. Đây là sự phát triển mang tính quyết định, biến Sevilla thành cảng và cánh cửa giao thương với Tân Thế Giới. Không giống như các cảng khác, để đến cảng Sevilla, tàu phải đi ngược khoảng 80 km (50 dặm) lên sông Guadalquivir. Dù việc điều hướng trên sông Guadalquivir gặp nhiều khó khăn do trọng tải tàu ngày càng tăng (một kết quả của xu hướng giảm chi phí vận tải biển vào cuối thời Trung Cổ),[25] lựa chọn Sevilla vẫn hợp lý. Lý do là vì Sevilla đã trở thành trung tâm dân số, kinh tế, và tài chính lớn nhất của Andalusia Kitô giáo vào cuối thời Trung Cổ.

Ngoài ra, một số yếu tố khác cũng ủng hộ việc chọn Sevilla, như: vùng bờ biển Andalusia chủ yếu nằm dưới sự kiểm soát phong kiến của Nhà Medina Sidonia; Sevilla có một vùng nội địa quan trọng và chuyên môn hành chính cao; đồng thời vị trí nội địa của thành phố cung cấp sự an toàn quân sự cũng như khả năng kiểm soát thuế tốt hơn.

Một "thời kỳ hoàng kim" của sự phát triển bắt đầu ở Sevilla nhờ việc thành phố được trao độc quyền hoàng gia trong giao thương với châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha và sự đổ về của những tài sản từ Tân Thế Giới. Vì chỉ những tàu biển xuất phát và quay trở lại cảng nội địa Sevilla mới được phép tham gia vào thương mại với châu Mỹ, các thương gia từ châu Âu và các trung tâm thương mại khác phải đến Sevilla để mua hàng hóa từ Tân Thế Giới. Dân số thành phố tăng lên hơn một trăm nghìn người.[26]

Sevilla vào cuối thế kỷ 16, Bảo tàng Châu Mỹ, Madrid
Tranh vẽ nạn dịch năm 1649

Đầu thế kỷ 17, thế độc quyền của Sevilla trong giao thương với nước ngoài bị phá vỡ. Cảng Cádiz trở thành cảng độc quyền thương mại do tình trạng bồi lắng của sông Guadalquivir vào thập niên 1620 khiến các cảng của Sevilla khó sử dụng hơn.[27][28] Đại dịch Sevilla năm 1649, vốn trở nên trầm trọng hơn bởi lũ lụt nghiêm trọng từ sông Guadalquivir, đã làm giảm dân số thành phố gần một nửa, và phải đến đầu thế kỷ 19 mới phục hồi.[29][30]

Vào thế kỷ 18, tầm quan trọng quốc tế của Sevilla giảm sút mạnh sau khi cảng độc quyền thương mại với châu Mỹ được chuyển đến Cádiz. Cádiz đã hỗ trợ tài chính cho ứng viên Bourbon trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, và được thưởng bằng quyền trở thành cảng độc quyền. Casa de Contratación (Cơ quan Quản lý Thương mại) và các doanh nghiệp thương mại lớn của hội thương gia cũng chuyển đến Cádiz. Trụ sở được xây dựng riêng cho hội thương gia tại Sevilla bị bỏ trống.[31]

Dưới triều đại của Carlos III, Archivo de Indias (Lưu trữ Tư liệu Tân Thế Giới) được thành lập tại Sevilla, trong tòa nhà từng là trụ sở của hội thương gia. Các tài liệu liên quan đến đế chế hải ngoại của Tây Ban Nha được chuyển từ các kho lưu trữ khác như Simancas và Casa de Contratación, và được tập trung trong một kho lưu trữ duy nhất. Một học giả cho rằng việc thành lập Archivo de Indias đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Tây Ban Nha, khi chế độ quân chủ Bourbon thế kỷ 18 bắt đầu coi các lãnh thổ hải ngoại như các thuộc địa của chính quốc, thay vì coi chúng như những thực thể ngang hàng với các vương quốc trên bán đảo Iberia.[32]

Cuộc diễu hành năm 1747 được tổ chức bởi công nhân của Nhà máy Thuốc lá Hoàng gia

Trong thế kỷ 18, Carlos III đã thúc đẩy các ngành công nghiệp của Sevilla. Việc xây dựng Real Fábrica de Tabacos (Nhà máy Thuốc lá Hoàng gia) bắt đầu vào năm 1728. Đây là tòa nhà lớn thứ hai ở Tây Ban Nha, chỉ sau cung điện hoàng gia El Escorial. Kể từ thập niên 1950, đây là trụ sở chính (ban quản trị) của Đại học Sevilla, đồng thời là nơi đặt các Khoa Luật, Ngữ văn, Địa lý, và Lịch sử.[33]

Nhiều vở opera đã được lấy bối cảnh tại Sevilla hơn bất kỳ thành phố nào khác ở châu Âu. Năm 2012, một nghiên cứu của các chuyên gia kết luận rằng tổng cộng có 153 vở opera lấy bối cảnh ở Sevilla. Trong số những nhà soạn nhạc yêu thích thành phố này có Beethoven (Fidelio), Mozart (Đám cưới FigaroDon Giovanni), Rossini (Người thợ cạo thành Sevilla), Donizetti (La favorite) và Bizet (Carmen).[34]

Tờ báo đầu tiên ở Tây Ban Nha ngoài Madrid là Hebdomario útil de Sevilla, bắt đầu xuất bản vào năm 1758.

Lịch sử hiện đại

[sửa | sửa mã nguồn]
Torre del Oro và cảng Sevilla vào nửa sau thế kỷ 19

Từ năm 1825 đến 1833, Melchor Cano giữ vai trò kiến trúc sư trưởng ở Sevilla. Phần lớn chính sách quy hoạch đô thị và các thay đổi kiến trúc của thành phố trong thời kỳ này đều do ông và cộng sự Jose Manuel Arjona y Cuba thực hiện.[35]

Các công trình kiến trúc công nghiệp còn tồn tại từ nửa đầu thế kỷ 19 bao gồm nhà máy gốm được gia đình Pickman lắp đặt tại tu viện Carthusian ở La Cartuja vào năm 1841. Hiện nay, địa điểm này là trụ sở của El Centro Andaluz de Arte Contemporáneo (CAAC) (Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Andalusia)[36], nơi quản lý các bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Sevilla.[37] Ngoài ra, nơi đây còn là trụ sở chính của UNIA (Universidad Internacional de Andalucía).[38]

Trong thời kỳ Nữ hoàng Isabel II trực tiếp cai trị (khoảng 1843–1868), tầng lớp tư sản Sevilla đã đầu tư vào một giai đoạn bùng nổ xây dựng chưa từng có trong lịch sử thành phố. Cây cầu Isabel II, thường được gọi là cầu Triana, được xây dựng trong thời kỳ này. Hệ thống chiếu sáng đường phố cũng được mở rộng và hầu hết các con đường trong thành phố được lát đá vào thời điểm này.[39]

Đến nửa sau thế kỷ 19, Sevilla bắt đầu mở rộng nhờ vào việc xây dựng đường sắt và phá bỏ một phần bức tường cổ, cho phép không gian đô thị của thành phố mở rộng về phía đông và nam. Công ty Sevillana de Electricidad được thành lập vào năm 1894 để cung cấp điện cho toàn thành phố,[40] và năm 1901, nhà ga đường sắt Plaza de Armas được khánh thành.

Poster triển lãm Ibero-Mỹ năm 1929

Bảo tàng Mỹ thuật (Museo de Bellas Artes de Sevilla) mở cửa vào năm 1904.

Năm 1929, Sevilla tổ chức Triển lãm Ibero-Mỹ, sự kiện này đã đẩy nhanh quá trình mở rộng phía nam của thành phố và tạo ra các không gian công cộng mới như Công viên María Luisa (Parque de María Luisa)Quảng trường Tây Ban Nha (Plaza de España) liền kề. Ngay trước khi khai mạc, chính phủ Tây Ban Nha đã bắt đầu hiện đại hóa thành phố để chuẩn bị cho lượng khách đông đảo, bằng cách xây dựng các khách sạn mới và mở rộng các con đường thời trung cổ để phù hợp với ô tô.[41]

Tướng Varela tập hợp quân đội và dân thường ở Sevilla (tháng 9 năm 1936)

Sevilla nhanh chóng thất thủ vào đầu Nội chiến Tây Ban Nha năm 1936. Tướng Queipo de Llano tiến hành một cuộc đảo chính trong thành phố và nhanh chóng chiếm được trung tâm thành phố.[42] Radio Sevilla phản đối cuộc nổi dậy và kêu gọi nông dân đến thành phố nhận vũ khí, trong khi các nhóm công nhân dựng lên các chướng ngại vật.[42] Queipo sau đó chiếm được Radio Sevilla, sử dụng nó để phát sóng tuyên truyền cho phe Francoist.[42] Sau khi chiếm được thành phố, sự kháng cự tiếp tục diễn ra ở các khu dân cư lao động trong một thời gian, cho đến khi hàng loạt cuộc đàn áp dữ dội xảy ra.[43]

Dưới sự cai trị của Francisco Franco, Tây Ban Nha chính thức giữ thái độ trung lập trong Thế chiến II[44][45][46] (mặc dù có hợp tác với phe Trục) và giống như phần còn lại của đất nước, Sevilla phần lớn bị cô lập về kinh tế và văn hóa với thế giới bên ngoài. Năm 1953, xưởng đóng tàu Sevilla được mở và đến thập niên 1970, nó đã tuyển dụng hơn 2.000 công nhân.

Trước khi có quy định quản lý vùng đất ngập nước trong lưu vực sông Guadalquivir, Sevilla thường xuyên chịu những trận lũ lụt nặng nề. Đặc biệt, trận lũ vào tháng 11 năm 1961, khi sông Tamarguillo – một nhánh của sông Guadalquivir – tràn bờ do mưa lớn, đã khiến Sevilla bị tuyên bố là vùng thảm họa.[47]

Phong trào công đoàn ở Sevilla bắt đầu vào những năm 1960 với các hoạt động tổ chức ngầm của Ủy ban Công nhân (Comisiones Obreras - CCOO) trong các nhà máy như Hytasa, xưởng đóng tàu Astilleros, Hispano Aviación, v.v. Một số lãnh đạo của phong trào đã bị bắt giam vào tháng 11 năm 1973.[cần dẫn nguồn]

Những phát triển gần đây

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 3 tháng 4 năm 1979, Tây Ban Nha tổ chức cuộc bầu cử hội đồng thành phố dân chủ đầu tiên sau khi chế độ độc tài Franco kết thúc. Tại Sevilla, các ủy viên hội đồng đại diện cho bốn đảng phái chính trị khác nhau đã được bầu chọn. Ngày 5 tháng 11 năm 1982, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Sevilla và cử hành Thánh lễ trước hơn nửa triệu người tại khu vực hội chợ. Ngài đã thăm lại thành phố vào ngày 13 tháng 6 năm 1993, nhân dịp Đại hội Thánh Thể Quốc tế.

Gian hàng Liên minh châu Âu tại Triển lãm Toàn cầu năm 1992.

Năm 1992, nhân dịp kỷ niệm 500 năm khám phá châu Mỹ, Triển lãm Toàn cầu đã diễn ra trong sáu tháng tại Sevilla. Nhân sự kiện này, mạng lưới giao thông và cơ sở hạ tầng đô thị của thành phố đã được cải thiện đáng kể theo kế hoạch PGOU năm 1987 do Thị trưởng Manuel del Valle khởi xướng.[48] Đường vành đai **SE-30** bao quanh thành phố được hoàn thành và các đường cao tốc mới được xây dựng. Nhà ga xe lửa mới Sevilla-Santa Justa được khánh thành năm 1991, và hệ thống tàu cao tốc Tây Ban Nha Alta Velocidad Española (AVE) bắt đầu hoạt động tuyến Madrid-Sevilla.

Sân bay Sevilla được mở rộng với một nhà ga mới do kiến trúc sư Rafael Moneo thiết kế, cùng với nhiều cải tiến khác. Cầu Alamillo và cầu Centenario, đều bắc qua sông Guadalquivir, cũng được xây dựng cho dịp này. Một số cơ sở vật chất còn lại tại địa điểm triển lãm sau sự kiện đã được chuyển đổi thành Công viên Khoa học và Công nghệ Cartuja 93.

Năm 2004, dự án Metropol Parasol, thường được gọi là Las Setas ("Những cây nấm"), được triển khai nhằm hồi sinh khu vực Plaza de la Encarnación, nơi từng được sử dụng làm bãi đậu xe và được coi là một điểm chết giữa các điểm đến du lịch phổ biến hơn trong thành phố. Metropol Parasol được hoàn thành vào tháng 3 năm 2011,[49] với tổng chi phí hơn 102 triệu euro, gấp hơn hai lần so với dự kiến ban đầu.[50]

Cấu trúc này được xây dựng từ các thanh gỗ đan chéo, được cho là công trình khung gỗ lớn nhất thế giới. Las Setas là tác phẩm của kiến trúc sư người Đức Jürgen Mayer.

Các thắng cảnh nổi tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]

Seville là một trung tâm du lịch lớn ở Tây Ban Nha. Năm 2018, có hơn 2,5 triệu khách du lịch và khách du lịch lưu trú tại các cơ sở lưu trú du lịch, đứng thứ ba ở Tây Ban Nha sau Madrid và Barcelona. Thành phố có khách du lịch quanh năm.[51] Có rất nhiều địa danh, viện bảo tàng, công viên, khu vườn và các điểm du lịch khác xung quanh thành phố nên luôn hút khách du lịch.

Alcázar, Nhà thờ chính tòa SevillaKho lưu trữ chung Ngoại Ấn là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận.

Thắng cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
La Giralda, ban đầu là ngọn tháp của Đại giáo đường Hồi giáo Seville, được xây dựng bởi Nhà Almoravid, hiện là tháp chuông của Nhà thờ chính tòa Sevilla.
Torre del Oro là một công trình thời Nhà Almoravid khác của thành phố.

Nhà thờ chính tòa Sevilla được xây dựng từ năm 1401 đến 1519 sau Reconquista trên địa điểm cũ là nhà thờ Hồi giáo của thành phố. Đây là một trong những nhà thờ lớn nhất trong tất cả các nhà thờ thời trung cổ và Gothic, cả về diện tích và khối lượng.

Alcázar đối diện với nhà thờ được phát triển từ một Cung điện của người Moor trước đây, được phát triển từ công trình của người Visigoth để lại. Người Visigoth phát triển từ một công trình La Mã. Quá trình tái phát triển được bắt đầu vào năm 1181 và kéo dài trong hơn 500 năm, chủ yếu theo phong cách Mudéjar xen lẫn một chút phong cách Phục Hưng. Chương trình truyền hình Game of Thrones đã quay nhiều cảnh tại địa điểm này.

Nhà thờ Saint Louis của Pháp, nằm trong khu phố cổ của Seville, đại diện của kiến trúc Baroque trong thế kỷ 18.

Kho lưu trữ chung Ngoại Ấn là kho lưu trữ các tài liệu lưu trữ cực kỳ có giá trị về lịch sử của Đế quốc Tây Ban Nha ở Châu Mỹ và Philippines. Tòa nhà đậm chất Ý của kiến trúc Phục hưng Tây Ban Nha, được thiết kế bởi Juan de Herrera.

Khu phố Triana nằm trên bờ phía tây của sông Guadalquivir có một vai trò quan trọng trong lịch sử của thành phố và tự nó tạo thành một trung tâm văn hóa dân gian lớn. Ngoài ra còn có dinh cơ Casa de Salinas ở Sevilla.

Bảo tàng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảo tàng Mỹ thuật Sevilla

Bộ sưu tập nghệ thuật quan trọng nhất của Seville nằm ở Bảo tàng Mỹ thuật Sevilla. Bảo tàng được thành lập năm 1835 tại tu viện cũ La Merced. Nơi đây trưng bày nhiều kiệt tác của các danh họa Murillo, Pacheco, Zurbarán, Valdés Leal, cùng các bậc thầy khác thuộc Trường phái Baroque Sevilla. Ngoài ra, bảo tàng còn lưu giữ các bức tranh Flanders từ thế kỷ 15 và 16.

Bảo tàng Nghệ thuật và Truyền thống

Các bảo tàng khác ở Sevilla bao gồm:

  • Bảo tàng Khảo cổ học Sevilla: Chứa các bộ sưu tập từ thời kỳ Tartessos, La Mã, Almohad, và Thiên Chúa giáo. Bảo tàng nằm tại Plaza América trong công viên Parque de María Luisa.
  • Bảo tàng Nghệ thuật và Phong tục Dân gian Sevilla: Cũng nằm ở Plaza América, đối diện Bảo tàng Khảo cổ học.
  • Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Andalusia: Nằm trong khu phố La Cartuja.
  • Bảo tàng Hàng hải: Đặt tại tháp Torre del Oro, bên cạnh sông Guadalquivir.
  • Bảo tàng Xe ngựa: Nằm ở khu Los Remedios.
  • Bảo tàng Nghệ thuật Flamenco.
  • Bảo tàng Đấu bò: Nằm trong đấu trường Maestranza.
  • Cung điện Nữ Bá tước Lebrija: Một bộ sưu tập tư nhân chứa nhiều sàn khảm được phát hiện tại thị trấn La Mã gần đó, Italica.
  • Centro Velázquez (Trung tâm Velázquez): Nằm tại Bệnh viện Cũ của Linh mục, thuộc khu du lịch Santa Cruz.
  • Antiquarium ở Metropol Parasol: Một bảo tàng ngầm gồm khu di tích khảo cổ quan trọng nhất từ thời kỳ La Mã cổ đại tại Seville và các tàn tích được bảo tồn.
  • Castillo de San Jorge (Lâu đài Thánh George): Nằm gần chợ Triana, cạnh cầu Isabel II. Đây là trụ sở cuối cùng của Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha.
  • Bảo tàng và Kho báu La Macarena: Nơi trưng bày bộ sưu tập của hội huynh đệ Macarena. Triển lãm này mang đến cho du khách cái nhìn rõ nét về Tuần Thánh ở Seville.
  • La Casa de la Ciencia (Nhà Khoa học): Một trung tâm khoa học và bảo tàng nằm đối diện Công viên María Luisa.
  • Bảo tàng Gốm sứ tại Triana.
  • Pabellón de la Navegación (Pavilion of Navigation): Gian triển lãm về hàng hải.

Công viên và Vườn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Vườn Alcázar trong khuôn viên của cung điện Alcázar, gồm một số khu vực được phát triển theo các phong cách lịch sử khác nhau.
  • Vườn Buhaira, còn có tên lịch sử là Huerta del Rey, là một công viên công cộng và di tích lịch sử, ban đầu là một khu vườn trong thời nhà Almohadvid (thế kỷ 12).[52][53](tr211)
Teatro Lope de Vega

Teatro Lope de Vega nằm trên đại lộ Avenida de María Luisa (gần công viên Parque de María Luisa). Nhà hát được xây dựng vào năm 1929, do kiến trúc sư Vicente Traver y Tomás thiết kế. Đây từng là khán phòng của gian triển lãm thành phố tại Triển lãm Ibero-Mỹ. Gian triển lãm này có một phòng lớn sau đó trở thành Casino de la Exposición. Nhà hát chiếm diện tích 4600 m² và có sức chứa 1100 khán giả. Kiến trúc của nó thuộc phong cách Baroque Tây Ban Nha phục hưng, trung thành với phong cách này cả về bố cục và trang trí.

Nhà hát đã tổ chức nhiều buổi biểu diễn đa dạng, bao gồm kịch, múa, opera, nhạc jazz, và flamenco. Hiện nay, chương trình biểu diễn nổi bật cả trong nước và quốc tế đã đưa nơi đây trở thành một trong những nhà hát quan trọng nhất tại Tây Ban Nha.[54]

Các nhà hát quan trọng khác bao gồm Teatro de la Maestranza, Auditorio Rocío Jurado, và Teatro Central.

Sevilla cũng có một corral de comedias (nhà hát sân trong), được gọi là Corral del Coliseo, hiện được sử dụng làm khu nhà ở.

Lễ hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Sevilla có nhiều lựa chọn giải trí phong phú và một trong những điểm thu hút lớn nhất là các lễ hội diễn ra quanh năm. Một số lễ hội tập trung vào tôn giáo và văn hóa, số khác lại tôn vinh văn hóa dân gian, truyền thống và giải trí của khu vực.[55]

Tuần Thánh ở Sevilla (Semana Santa)

[sửa | sửa mã nguồn]
Cây thánh giá dẫn đường của giáo xứ La Macarena khi đi qua Phố Fray Luis Sotelo.

Lễ hội Semana Santa được tổ chức khắp Tây Ban Nha và Mỹ Latin, nhưng sự kiện tại Sevilla đặc biệt lớn và được công nhận là Fiesta of International Tourist Interest (Lễ hội Du lịch Quốc tế). Có 54 hội huynh đệ địa phương[56] (cofradías) tổ chức các xe rước và các cuộc diễu hành trong tuần, tái hiện câu chuyện về Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Âm nhạc và nghệ thuật truyền thống được lồng ghép vào các cuộc diễu hành, biến Semana Santa thành một phần quan trọng trong bản sắc văn hóa hữu hình và vô hình của Sevilla.[57][58][59]

Bienal de Flamenco

[sửa | sửa mã nguồn]

Sevilla là nơi tổ chức lễ hội flamenco hai năm một lần La Bienal, được coi là "sự kiện flamenco lớn nhất thế giới" và kéo dài gần một tháng.[60]

Velá de Santiago y Santa Ana

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại khu vực Triana, lễ hội Velá de Santiago y Santa Ana được tổ chức vào tháng 7 hàng năm, bao gồm các sự kiện thể thao, biểu diễn và hoạt động văn hóa nhằm tôn vinh Thánh Santiago và Thánh Ana.[61]

Hội chợ Tháng Tư (Feria de Abril)

[sửa | sửa mã nguồn]
Casetas trong Feria de Abril 2012

Lễ hội Feria de Abril là một sự kiện lớn diễn ra khoảng hai tuần sau Semana Santa. Ban đầu, lễ hội gắn liền với việc buôn bán gia súc, nhưng ngày nay, nó nhằm tạo ra một không khí vui vẻ, gắn với việc tôn vinh văn hóa dân gian Tây Ban Nha.[62]

Trong lễ hội, các gia đình, doanh nghiệp, và tổ chức dựng các casetas (lều bạt) để vui chơi, khiêu vũ, uống rượu, và giao lưu. Phụ nữ thường mặc những bộ váy flamenco lộng lẫy, trong khi đàn ông mặc những bộ vest trang trọng. Các lều bạt được dựng trên một khu hội chợ cố định ở quận Los Remedios,[63] nơi mỗi con phố được đặt theo tên một đấu sĩ bò tót nổi tiếng.

Salón Náutico Internacional de Sevilla

[sửa | sửa mã nguồn]

Triển lãm Thuyền Quốc tế Sevilla là sự kiện thường niên được tổ chức tại cảng biển nội địa duy nhất của Tây Ban Nha, và cũng là một trong những cảng quan trọng nhất châu Âu.[64]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Sevilla được biết đến với dòng nhạc flamenco rock, với ban nhạc Triana được xem là đại diện tiêu biểu và là cha đẻ của dòng nhạc rock andaluz.[65]

Thành phố cũng có một nền nhạc rock sôi động vào những năm 1970 và 1980,[66] với các ban nhạc như Triana, Alameda, và Smash, kết hợp giữa flamenco truyền thống và rock phong cách Anh. Vào đầu những năm 1990, các nhóm nhạc punk rock như Reincidentes, ban nhạc indie Sr Chinarro, và ca sĩ Kiko Veneno bắt đầu nổi lên. Hiện nay, âm nhạc tại Sevilla có cả những nghệ sĩ rap như SFDK, Mala Rodríguez, và Tote King, thể hiện sự đa dạng trong đời sống âm nhạc của thành phố.

Sevilla cũng là nơi diễn ra nhiều buổi biểu diễn nhạc cổ điển tại các nhà hát như Teatro Lope de Vega, Teatro de la Maestranza, và Real Alcázar Gardens.

Ngày 19 tháng 11 năm 2023, Sevilla đã tổ chức Lễ trao giải Grammy Latin lần thứ 24 tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm FIBES, trở thành thành phố đầu tiên ngoài Hoa Kỳ đăng cai sự kiện này.[67][68]

Trang phục Flamenco trong Hội chợ Sevilla

Quận Triana tại Sevilla được coi là cái nôi của flamenco, nơi nó khởi nguồn như một hình thức thể hiện của những người nghèo và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Cộng đồng người Romani tại Sevilla, được gọi là Flamencos, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của loại hình nghệ thuật này. Flamenco bắt đầu như một đại diện của văn hóa Andalusia và đã trở thành biểu tượng di sản quốc gia của Tây Ban Nha.[69][70][71][72]

Sevilla có nhiều nghệ sĩ flamenco hơn bất kỳ nơi nào khác tại Tây Ban Nha, tạo nên một ngành công nghiệp xung quanh loại hình này và thu hút lượng lớn khách du lịch đến thành phố.[73]

Ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]
Gazpacho Andalusia

Tapas là một trong những điểm thu hút văn hóa chính của thành phố: mọi người đi từ quán bar này sang quán bar khác, thưởng thức những món ăn nhẹ gọi là tapas (nghĩa đen là "nắp" trong tiếng Tây Ban Nha, đề cập đến nguồn gốc của chúng là đồ ăn nhẹ được phục vụ trên đĩa nhỏ dùng để đậy đồ uống). Đặc sản địa phương bao gồm hải sản chiên và nướng (bao gồm mực ống, choco (mực nang), cá kiếm, cá nhám ướp và ortiguillas (hải quỳ)), các món thịt nướng và hầm, rau bina với đậu xanh, Jamón ibérico, thận cừu sốt sherry, ốc sên, caldo de puchero và Gazpacho. Bánh sandwich được gọi là serranito là phiên bản thức ăn nhanh điển hình và phổ biến.

Các món tráng miệng đặc trưng của Seville bao gồm: pestiños, một loại bánh ngọt phủ mật ong; torrijas, lát bánh mì chiên với mật ong; roscos fritos, bánh rán vòng bọc đường chiên giòn; magdalenas hay bánh cổ tích; yemas de San Leandro, cung cấp nguồn doanh thu cho các tu viện của thành phố; và tortas de aceite, một loại bánh mỏng phủ đường làm từ dầu ô liu. Polvoronesmantecados là những sản phẩm Giáng sinh truyền thống, trong khi pestiños và torrijas thường được tiêu thụ trong Tuần Thánh ở Sevilla.

Cam đắng Sevilla mọc trên các con phố trong thành phố, thường được xuất khẩu sang Anh để làm mứt. Gần đây, thành phố đã thử nghiệm sử dụng khí metan sinh ra từ quá trình lên men cam để sản xuất điện sạch.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Staff (2020). “Seville, Spain”. earth.esa.int. ESA Earth Online 2000 - 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2020.
  2. ^ “Valores climatológicos normales, Sevilla Aeropuerto” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Agencia Estatal de Meteorología. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  3. ^ “Valores extremos, Sevilla Aeropuerto” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Agencia Estatal de Meteorología. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  4. ^ José María de Mena (1985). Historia de Sevilla. Plaza & Janés. tr. 39. ISBN 978-84-01-37200-1. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
  5. ^ Elizabeth Nash (16 tháng 9 năm 2005). Seville, Cordoba, and Granada: A Cultural History: A Cultural History. Oxford University Press, USA. tr. 8. ISBN 978-0-19-972537-3.
  6. ^ a b c González Athané, José (2012). “La influencia del río Guadalquivir en la imagen de la ciudad de Sevilla a lo largo de los siglos” (PDF). Paisajes modelados por el agua: entre el arte y la ingeniería. tr. 102. ISBN 978-84-9852-345-4. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022.
  7. ^ Calvo Capilla, Susana (2007). “Las primeras mezquitas de al-Andalus a través de las fuentes árabes (92/711 – 170/785)”. Al-Qanṭara. Madrid: Ediciones CSIC. 28 (1): 167. doi:10.3989/alqantara.2007.v28.i1.34.
  8. ^ Scheen, Rolf (1996). “Viking raids on the spanish peninsula”. Militaria: Revista de Cultura Militar. Madrid: Ediciones Complutense (8): 67. ISSN 0214-8765.
  9. ^ Valencia, Rafael (1994). “Islamic Seville: Its Political, Social and Cultural History”. Trong Jayyusi, Salma Khadra (biên tập). The Legacy of Muslim Spain (ấn bản thứ 2). Leiden, New York, Köln: EJ Brill. tr. 138. ISBN 90-04-09599-3.
  10. ^ García Sanjuán, Alejandro (2004). “Declive y extinción de la minoría cristiana en la Sevilla andalusí (ss. XI-XII)” (PDF). Historia. Instituciones. Documentos (31): 271–276. ISSN 0210-7716. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022.
  11. ^ Valor Piechotta, Magdalena; Lafuente Ibáñez, Pilar (2018). “La Sevilla 'abbādí” (PDF). Trong Sarr, Bilal (biên tập). Tawa'if. Historia y Arqueología de los reinos taifas. Granada. tr. 182. ISBN 978-84-949380-2-3.
  12. ^ Ramírez del Río, José (1999). “Pueblos de Sevilla en época islámica. Breve recorrido histórico-político” (PDF). Philologia Hispalensis. 13 (1): 19. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022.
  13. ^ El Hour, Rachid (1999). “La transición entre las épocas almorávide y almohade vista a través de las familias de ulemas” (PDF). Estudios onomástico-biográficos de al-Andalus, IX. Consejo Superior de Investigaciones Científicas. tr. 291. ISBN 84-00-07860-8. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022.
  14. ^ Domínguez Berenjeno, Enrique Luis (2001). “La remodelación urbana de Ishbilia a través de la historiografía almohade” (PDF). Actas de las II Jornadas Cordobesas de Arqueología Andaluza. Córdoba: UCOPress (12): 178–179. doi:10.21071/aac.v0i.11252 (không hoạt động 1 November 2024).Quản lý CS1: DOI không hoạt động tính đến tháng 11 2024 (liên kết)
  15. ^ Buresi, Pascal (2017). “The story of the Almohads in the Kingdom of Fez and of Morocco”. The Soul of Morocco. tr. 105–146.
  16. ^ García-Sanjuan, Alejandro (2020). “Box 2.1 Seville”. Trong Fierro, Maribel (biên tập). The Routledge Handbook of Muslim Iberia. Routledge. tr. 23–25. ISBN 978-1-315-62595-9.
  17. ^ Ladero Quesada, Miguel Ángel (1987). “Las ciudades de Andalucía occidental en la Baja Edad Media: sociedad, morfología y funciones urbanas”. En la España medieval. Madrid: Ediciones Complutense. 10: 74. ISSN 0214-3038.
  18. ^ Mott, Lawrence V. (2002). “Iberian Naval Power, 1000–1650” (PDF). Trong Hattendorf, John B.; Unger, Richard W. (biên tập). War at Sea in the Middle Ages and the Renaissance. Boydell & Brewer. tr. 107. ISBN 978-1-84615-171-2. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022.
  19. ^ Joseph F. O'Callaghan (1975). A History of Medieval Spain. Cornell University Press. tr. 353. ISBN 978-0-8014-9264-8. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  20. ^ García Sanjuán, Alejandro (2017). “La conquista de Sevilla por Fernando III (646 h/1248). Nuevas propuestas a través de la relectura de las fuentes árabes”. Hispania. Revista Española de Historia. Madrid: Editorial CSIC. LXXVII (255): 31–33. doi:10.3989/hispania.2017.001. hdl:10272/15574. ISSN 0018-2141.
  21. ^ John Julius Norwich (1 tháng 4 năm 2001). Great Architecture of the World. Da Capo Press, Incorporated. tr. 271. ISBN 978-0-306-81042-8. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  22. ^ Longhurst, john Edward (1 tháng 1 năm 1964). “The Age of Torquemada, Chapter 6, pg. 79”. Coronado Press. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2021. Description of Dominican friar who agitated for the Spanish Inquisition.
  23. ^ MacKay, A. (1972). “Popular Movements and Pogroms in Fifteenth-Century Castile”. Past and Present (55): 33–67. doi:10.1093/past/55.1.33.
  24. ^ Levine Melammed, Renee. "Women in Medieval Jewish Societies." Women and Judaism: New Insights and Scholarship. Ed. Frederick E. Greenspahn. New York: New York University Press, 2009. 105–106.
  25. ^ Pérez-Mallaína, Pablo E. (1997). “Auge y decadencia del puerto de Sevilla como cabecera de las rutas indianas”. Caravelle. Cahiers du monde hispanique et luso-brésilien. 69: 15–16. doi:10.3406/carav.1997.2753. hdl:11441/101782.
  26. ^ “Demografía de Sevilla en el siglo XVI”. Seville University. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2012.
  27. ^ Nash, Elizabeth (13 tháng 10 năm 2005). Seville, Cordoba, and Granada: A Cultural History (bằng tiếng Anh). Oxford University Press. ISBN 978-0-19-518204-0.
  28. ^ “Chapter 15: A History of Spain and Portugal”. libro.uca.edu. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2019.
  29. ^ “99.06.01: Human-Environment Relations: A Case Study of Donana National Park, Andalucia, Spain and the Los Frailes Mine Toxic Spill of 1998”. Yale.edu. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2011.
  30. ^ Casey, James (2002). Early Modern Spain: A Social History. Routledge. tr. 37–38. ISBN 978-1-134-62380-8.
  31. ^ Byron Ellsworth Hamann, The Invention of the Colonial Americas: Data, Architecture, and the Archive of the Indies, 1781-1844. Los Angeles: Getty Publications 2022
  32. ^ Hamann, The Invention of the Colonial Americas: Data, Architecture, and the Archive of the Indies, 1781-1844, 1
  33. ^ “Un campus, una ciudad”. Universidad de Sevilla. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2014.
  34. ^ Mounielou, Jean Francois (21 tháng 2 năm 2017). “Seville and the Opera, a true love affair”. Terra Traditions. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2018.
  35. ^ Antigüedad del Castillo-Olivares, María Dolores (1990). “El arquitecto Melchor Cano y la teoría de la ciudad. Espacio, Tiempo y Forma”. Historia del Arte. VII. Madrid: UNED. 3: 417–439.
  36. ^ Santiago Cirugeda; và đồng nghiệp. Collectives Architectures. Vibok Works. ISBN 978-84-939058-2-8. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
  37. ^ Cristóbal Belda Navarro; María Teresa Marín Torres (2002). Quince Miradas Sobre Los Museos. Editum. tr. 260. ISBN 978-84-8371-311-2. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
  38. ^ “La UNIA acoge en Sevilla unas jornadas de arteypensamiento sobre Capital y Territorio”. Universidad Internacional de Andalucía. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2013.
  39. ^ Diego A. Cardoso Bueno: Sevilla. El Casco Antiguo. Historia, Arte y Urbanismo. Ediciones Guadalquivir (2006). ISBN 84-8093-154-X. Consultado el 24 March 2010
  40. ^ Fernández Paradas, Mercedes; La implantación del alumbrado público de electricidad en la Andalucía del primer del tercio del S. XX, Universidad de Málaga, España [04-09-2012].
  41. ^ Henry Robinson Luce (tháng 1 năm 1929). “Time”. Time. 13: 25. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2013.
  42. ^ a b c The Spanish Civil War, Hugh Thomas, Penguin, 1961, pp. 221–223, ISBN 0-14-013593-6
  43. ^ Noble, John; Forsyth, Susan; Maric, Vesna (1 tháng 1 năm 2007). Lonely Planet Andalucia. Lonely Planet Publications. ISBN 978-1-74059-973-3. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2011 – qua Google Books.
  44. ^ Stanley G. Payne (2008). Franco and Hitler: Spain, Germany, and World War II. Yale University Press. tr. 123. ISBN 978-0-300-12282-4.
  45. ^ Wayne H. Bowen (2006). Spain During World War II. University of Missouri Press. tr. 25. ISBN 978-0-8262-6515-9.
  46. ^ Marshall Cavendish Corporation (tháng 1 năm 2004). History of World War II. Marshall Cavendish. tr. 611. ISBN 978-0-7614-7482-1.
  47. ^ Christian Pfister; Rudolf Brázdil; Rüdiger Glaser (14 tháng 3 năm 2013). Climatic Variability in Sixteenth-Century Europe and Its Social Dimension. Springer Science & Business Media. tr. 272. ISBN 978-94-015-9259-8.
  48. ^ “Muere Manuel del Valle, el exalcalde de Sevilla que rediseñó la ciudad”. ABC. 27 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2020.
  49. ^ Rowan Moore. “Metropol Parasol, Seville by Jürgen Mayer H – review | Art and design”. The Guardian. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.
  50. ^ barba, eduardo (7 tháng 5 năm 2012). “La factura final de las "setas" es de 102 millones, el doble de lo presupuestado”. ABC de Sevilla. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2016.
  51. ^ Guaita Martínez, José Manuel; Martín Martín, José María; Salinas Fernández, Jose Antonio; Mogorrón-Guerrero, Helena (tháng 7 năm 2019). “An analysis of the stability of rural tourism as a desired condition for sustainable tourism”. Journal of Business Research. 100: 165–174. doi:10.1016/j.jbusres.2019.03.033. S2CID 159374518.
  52. ^ “Buhaira Palace and its Gardens”. Turimo de la Provincia - Sevilla. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  53. ^ Arnold, Felix (2017). Islamic Palace Architecture in the Western Mediterranean: A History. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-062455-2.
  54. ^ Historia del Teatro Lope de Vega, Teatro Lope de Vega, Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2011, truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2008
  55. ^ “Seville, Spain”. Express Travel World. 12 tháng 7 năm 2016 – qua GaleGroup.
  56. ^ “Holy Week in Seville”. Tourism of Seville. Accessed 23 May 2020
  57. ^ Palma, María Luisa; Palma, Luis; Aguado, Luis Fernando (8 tháng 6 năm 2012). “Determinants of cultural and popular celebration attendance: the case study of Seville Spring Fiestas”. Journal of Cultural Economics. 37 (1): 87–107. doi:10.1007/s10824-012-9167-5. S2CID 144559604.
  58. ^ “Popular festivities in Seville, Spain: Easter Week in Sevilla in Spain”. Spain Info US. 23 tháng 4 năm 2007.
  59. ^ “Itinerario Oficial Semana Santa de Sevilla 2018”. Semana-santa.org (bằng tiếng Tây Ban Nha).
  60. ^ “la Bienal de Flamenco de Sevilla”. Labienal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2018.
  61. ^ “La velá de Santiago y Santa Ana en Triana, Sevilla”. Visitar Sevilla (bằng tiếng Tây Ban Nha). 16 tháng 7 năm 2014.
  62. ^ Castillo-Manzano, José I.; López-Valpuesta, Lourdes; Marchena-Gómez, Manuel (tháng 2 năm 2015). “Seville: A city with two souls”. Cities. 42: 142–151. doi:10.1016/j.cities.2014.10.005. hdl:11441/148837.
  63. ^ “Feria de Abril, Seville”. Exploreseville.com. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2013.
  64. ^ “The first Seville Boat Show arrives in June”. barcheamotore.com. 8 tháng 4 năm 2019.
  65. ^ García-Peinazo, Diego (2019). “"The World's First Flamenco Rock Band"? Anglo-American Progressive Rock, Politics and National Identity in Spain around Carmen's Fandangos in Space”. Rock Music Studies. 7: 3. doi:10.1080/19401159.2019.1651533. S2CID 201361699.
  66. ^ “Seville: UNESCO City of Music” (PDF). UNESCO. 2007. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2018.
  67. ^ “Latin Grammys to be held in Spain, leaving US for 1st time”. Associated Press News. 22 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  68. ^ Ochoa, John (4 tháng 5 năm 2023). “2023 Latin Grammys To Host First-Ever International Telecast In Sevilla, Spain, On Nov. 16; Nominations To Be Announced Sept. 19”. Recording Academy Grammy Awards. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2023.
  69. ^ Ruiz, Ana (2007). Vibrant Andalusia: The spice of life in southern Spain. New York: Algora Publ. ISBN 978-0-87586-539-3.
  70. ^ Brown, Joshua (2014). “Flamenco capital: Tradition, revolution and renewal in Seville, Spain”. UC Riverside. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
  71. ^ Washabaugh, William (2012). Flamenco music and national identity in Spain. Farnham: Ashgate Publishing Ltd. ISBN 978-1-4094-3485-6.
  72. ^ Manuel, Peter (1989). “Andalusian, Gypsy, and class identity in the contemporary flamenco complex”. Ethnomusicology. 33 (1): 47–65. doi:10.2307/852169. JSTOR 852169. S2CID 191384305.
  73. ^ Aoyama, Yuko (tháng 3 năm 2009). “Artists, tourists, and the state: Cultural tourism and the flamenco industry in Andalusia, Spain”. International Journal of Urban and Regional Research. 33 (1): 80–104. doi:10.1111/j.1468-2427.2009.00846.x. S2CID 144812906.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu các nhân vật trong Postknight 2
Giới thiệu các nhân vật trong Postknight 2
Trong Postknight 2 chúng ta sẽ gặp lại những người bạn cũ, và thêm những người bạn mới
Borrowed Time - bộ phim ngắn khá u tối của Pixar
Borrowed Time - bộ phim ngắn khá u tối của Pixar
Pixar Animation Studios vốn nổi tiếng với những bộ phim hơi có phần "so deep"
Airi Sakura Classroom of the Elite
Airi Sakura Classroom of the Elite
Airi Sakura (佐さ倉くら 愛あい里り, Sakura Airi) là một học sinh của Lớp 1-D và từng là một người mẫu ảnh (gravure idol).
Red Loong lại đeo một đống lò lửa trên lưng - Black Myth: Wukong
Red Loong lại đeo một đống lò lửa trên lưng - Black Myth: Wukong
Trong phần lore của Xích Nhiêm Long (Red Loong), có kể rất chi tiết về số phận vừa bi vừa hài và đầy tính châm biếm của chú Rồng này.