Tổng cục Hải quan | |
---|---|
Hải quan Việt Nam | |
Thành lập | 10 tháng 9 năm 1945 |
Loại | Cơ quan nhà nước cấp Tổng cục |
Vị thế pháp lý | Hợp pháp, hoạt động |
Mục đích | Thu thuế quan, chống buôn lậu |
Trụ sở chính | Số 9, đường Dương Đình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy |
Vị trí | |
Ngôn ngữ chính | Tiếng Việt |
Tổng cục trưởng | Nguyễn Văn Thọ |
Chủ quản | Bộ Tài chính |
Trang web | Cổng Thông tin điện tử Tổng cục Hải quan |
Tổng cục Hải quan (tiếng Anh: General Department of Vietnam Customs, nguyên văn 'Tổng cục Hải quan Việt Nam') là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính với chức năng quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối hoặc tiền Việt Nam qua biên giới.
Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được uỷ quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập Sở thuế quan và thuế gián thu khai sinh ngành hải quan Việt Nam với nhiệm vụ: thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó, ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt, hoà giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
Giai đoạn 1945-1954, cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hải quan Việt Nam phối hợp cùng các lực lượng thực hiện chủ trương bao vây kinh tế và đấu tranh kinh tế với địch. Nhiệm vụ chính trị của Hải quan Việt Nam thời kỳ này là bám sát và phục vụ kịp thời nhiệm vụ của cách mạng, tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia, kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm.
Giai đoạn 1954-1975, Hải quan Việt Nam được xác định là công cụ bảo đảm thực hiện chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hoá phi mậu dịch), tiếp nhận hàng hoá viện trợ và chống buôn lậu qua biên giới.
Năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết chấm dứt chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Hải quan Việt Nam huấn luyện, chuẩn bị các điều kiện triển khai công tác khi miền Nam được giải phóng.
Sau khi thống nhất đất nước, Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả nước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, sân bay quốc tế, bưu cục ngoại dịch, trạm chở hàng. Do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất, Chính phủ đã có Quyết định số 80/CT ngày 5 tháng 3 năm 1979 quyết định chuyển tổ chức hải quan địa phương thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố về thuộc Cục Hải quan, Bộ Ngoại thương.
Ngày 24 tháng 2 năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký lệnh công bố Pháp lệnh Hải quan có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 5 năm 1990. Pháp lệnh xác định chức năng của Hải quan Việt Nam là quản lý Nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối hoặc tiền Việt Nam qua biên giới. Bộ máy tổ chức của Hải quan Việt Nam được xác định rõ, tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng.
Theo Điều 3, Quyết định số 65/2015/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ, cơ cấu tổ chức Tổng cục Hải quan gồm:
Các tổ chức quy định từ số 1 đến số 13 nêu trên là tổ chức hành chính giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các tổ chức quy định từ số 14 đến số 16 nêu trên là tổ chức sự nghiệp.
a) Các Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc Tổng cục Hải quan:gồm 35 cục Hải quan trong đó có 15 cục Hải quan liên tỉnh:
b) Các Chi cục Hải quan: Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Việc thành lập, sáp nhập, giải thể các Chi cục Hải quan, Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định.
c) Các đơn vị quy định tại điểm a và điểm b nêu trên có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Ngày 1 tháng 7 năm 1993, Hải quan Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Hợp tác Hải quan (CCC), nay là Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO). Sau khi trở thành thành viên của WCO, Hải quan Việt Nam đã tham gia Công ước Kyoto về Đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (năm 1997), Công ước quốc tế về Hệ thống hài hoà về mô tả và mã hoá hàng hoá (Công ước HS) (năm 1998). Từ năm 2000 đến nay, Hải quan Việt Nam đã và đang tiến hành các bước chuẩn bị cần thiết để tham gia Công ước Kyoto sửa đổi.
Trong 2 năm 1999 - 2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2 dự án với nước ngoài: Dự án VIE - 97/059 do UNDP tài trợ về "tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế" và Dự án nghiên cứu khả thi do Cơ quan Phát triển và Thương mại Hoa Kỳ (TDA) và Công ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến tới áp dụng công nghệ trao đổi dữ liệu điện tử EDI".
Ngày 29 tháng 12 năm 2003, Hải quan Việt Nam bắt đầu thực hiện việc xác định trị giá hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cho đến nay, Hải quan Việt Nam đã triển khai áp dụng phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT đối với hàng hoá đến từ 51 quốc gia trên toàn cầu.