Trà Vinh
|
|||
---|---|---|---|
Tỉnh | |||
Tỉnh Trà Vinh | |||
Biểu trưng | |||
Biệt danh | Vùng đất cuối dòng Cửu Long Xứ dừa sáp Xứ sở của những ngôi chùa cổ | ||
Tên cũ | Vĩnh Trà, Vĩnh Bình, Cửu Long | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh lỵ | Thành phố Trà Vinh | ||
Trụ sở UBND | Số 1, đường 19 tháng 5, phường 1, thành phố Trà Vinh | ||
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 1 thị xã, 7 huyện | ||
Thành lập | 1/1/1900 | ||
Đại biểu Quốc hội | |||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lê Văn Hẳn | ||
Hội đồng nhân dân | 49 đại biểu | ||
Chủ tịch HĐND | Kim Ngọc Thái | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Nguyễn Văn Triết | ||
Chánh án TAND | Trịnh Minh Tự | ||
Viện trưởng VKSND | Nguyễn Văn Tùng | ||
Bí thư Tỉnh ủy | Ngô Chí Cường | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 9°48′50″B 106°17′56″Đ / 9,813946°B 106,298904°Đ | |||
| |||
Diện tích | 2.390,76 km²[1][2]:90 | ||
Dân số (2022) | |||
Tổng cộng | 1.019.258 người[2]:93 | ||
Thành thị | 184.860 người (23,5%)[2]:99 | ||
Nông thôn | 834.398 người (76,5%)[2]:101 | ||
Mật độ | 426 người/km²[2]:90 | ||
Dân tộc | Kinh, Khmer, Hoa | ||
Kinh tế (2022) | |||
GRDP | 87.279 tỉ đồng (3,72 tỉ USD) | ||
GRDP đầu người | 71,1 triệu đồng (3.054 USD) | ||
Khác | |||
Mã địa lý | VN-51 | ||
Mã hành chính | 84[3] | ||
Mã bưu chính | 94xxxx | ||
Mã điện thoại | 294 | ||
Biển số xe | 84 | ||
Website | travinh | ||
Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Trà Vinh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long; vị trí địa lý giới hạn từ 9°31'46" đến 10°4'5" vĩ độ Bắc và từ 105°57'16" đến 106°36'04" kinh độ Đông. Trà Vinh cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km đi bằng quốc lộ 53 qua tỉnh Vĩnh Long, khoảng cách rút ngắn thời gian chỉ còn 130 km nếu đi bằng quốc lộ 60 qua tỉnh Bến Tre, cách thành phố Cần Thơ 50 km. Được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cung Hầu và Định An nên giao thông đường thủy có điều kiện phát triển[4].
Trà Vinh là tỉnh duyên hải Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý:
Trà Vinh nằm ở cuối cù lao, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là đất bằng phẳng với độ cao dưới 1m so với mực nước biển. Vì nằm ở vùng đồng bằng ven biển, có nhiều giồng cát chạy dọc theo bờ biển, tạo thành các đường cong song song. Các giồng càng gần biển càng cao và rộng hơn.
Với sự chia cắt bởi các giồng và mạng lưới đường lộ, kinh rạch, địa hình Trà Vinh khá phức tạp. Có các vùng trũng xen kẹp giữa các giồng cao, và độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Đặc biệt, phần nam tỉnh có đất thấp, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung thành nhiều vùng trũng nhỏ, với độ cao chỉ từ 0,5-0,8m. Do đó, hàng năm, vùng này thường bị ngập mặn trong khoảng thời gian từ 3-5 tháng.
Trên địa bàn Trà Vinh có hệ thống sông chính với tổng chiều dài 578 km, trong đó có các sông lớn là sông Hậu và sông Cổ Chiên. Các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn Trà Vinh hợp lưu đổ ra biển chủ yếu qua hai cửa sông chính là cửa Cổ Chiên hay còn gọi là cửa Cung Hầu và cửa Định An.
Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển, tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 20 - 27 °C, độ ẩm trung bình 80 - 8000%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600mm, có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch[4].
Hàng năm, hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng, trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn.
Trà Vinh cũng gặp một khó khăn hiện nay đó chính là bị ngập mặn vào một số mùa khô trong năm.
Tài nguyên rừng
Tỉnh Trà Vinh có khoảng 9.539ha diện tích có rừng, trong đó rừng tự nhiên là 2.955 ha rừng tự nhiên và 6.584 rừng trồng. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 4,1%.[5]
Năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung toàn tỉnh đạt 80 ha, so cùng kỳ năm 2021 tăng 27,28%, tương ứng tăng 17 ha, (trong đó: rừng sản xuất đạt 1,2 ha, giảm 89,81%; rừng phòng hộ đạt 79 ha, tăng 54,29% so cùng kỳ). Sản lượng gỗ khai thác đạt 72.935 m3 .
Tài nguyên đất
Tỉnh có 5 nhóm đất (đất cát, đất mặn, đất phèn, đất phù sa và đất lập líp) và 18 loại đất. Trong đó, nhóm đất mặn có diện tích lớn nhất, 47.362 ha chiếm 19,81%, gồm 4 loại đất; Nhóm đất Líp với diện tích 35.838 ha; Nhóm đất phù sa có 3 loại với 34.180 ha (14,30%); Nhóm đất phèn 32.910 ha tương đương 13,77% diện tích; (v) Nhóm đất cát với 8.250 ha tương đương 3,45% diện tích tự nhiên và nhóm này cũng chỉ có một loại duy nhất là đất cát giồng.
Tài nguyên nước
Tỉnh Trà Vinh có tài nguyên nước mặt khá dồi dào.Bao gồm nước mặt và nước dưới đất.
Tài nguyên khoáng sản: chủ yếu là titan sa khoáng ven biển, nước khoáng và khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường: cát lòng sông, cát ven biển, cát giồng, đất sét,…
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có Mỏ nước khoáng đạt tiêu chuẩn khoáng cấp quốc gia, nhiệt độ 38,5oC, khả năng khai thác cấp trữ lượng 211 đạt sản lượng 240m3/ngày, cấp tài nguyên 333 đạt 19.119m3/ngày phân bổ tại thị xã Duyên Hải[6].
Tài nguyên thủy hải sản:
Tỉnh Trà Vinh có chiều dài bờ biển 65 km với 03 cửa sông lớn là Cung Hầu và Định An đủ điều kiện cho các loại tàu có công suất lớn neo đậu, ra vào thuận tiện; cho phép hoạt động khai thác hải sản diễn ra quanh năm với sản lượng ổn định. Tỉnh có diện tích ngư trường khai thác lên tới 45.536 hải lý vuông với nhiều bãi cá, tôm, mực tự nhiên; trữ lượng thủy hải sản có khả năng khai thác từ 65.000 - 70.000 tấn/năm, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, cá hồng, cá thu, cá chim, mực, tôm tạo tiềm năng lớn cho việc phát triển ngành khai thác, chế biến hải sản của địa phương.[7]
Sản lượng thủy sản năm 2022 đạt 221,541 nghìn tấn, tăng 0,08% so với năm 2021. Chia ra, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 165,837 nghìn tấn, tăng 8,75%; sản lượng khai thác đạt 55,704 nghìn tấn, giảm 19,13% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng chủ yếu ở tôm thẻ chân trắng do giá tôm thẻ chân trắng trong thời gian qua vẫn ở mức cao nên người nuôi đã mở rộng diện tích thả nuôi, năng suất đạt khá cao. Ngoài ra, những tháng đầu năm mô hình nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao trên địa bàn tỉnh đang phát triển, hình thức nuôi này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, tuy nguồn vốn đầu tư nhiều nhưng tình hình thiệt hại giảm, lợi nhuận đem lại khá nên nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi.[7]
Trước đây, vùng đất Trà Vinh còn được gọi là xứ Trà Vang. Tên Trà Vang vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ Nam Á cổ mà dân gian thường gọi là Trah Păng. Tên gọi ấy phản ánh đặc điểm cảnh quan thuở xa xưa của một vùng đất mới được bồi đắp ở ven sông, ven biển, có nhiều vùng trũng, đầm lầy,... Vì vậy, Trà Vinh là tỉnh còn tương đối non trẻ.
Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long được lập ra năm 1832.
Vùng đất và tên gọi "Trà Vang"[8], tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.
Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn.
Năm 1803, vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn.
Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh.
Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.
Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long.
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.
Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Tỉnh Trà Vinh là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Năm 1917, tỉnh Trà Vinh có năm quận là Châu Thành, Bắc Trang, Bàng Đa, Càn Long (ban đầu chữ Càn Long được viết như vậy) và Ô Lắc.
Tháng 8 năm 1928, Thống đốc Nam kỳ ra Nghị định phân chia lại địa giới hành chính. Theo đó, tỉnh Trà Vinh bãi bỏ quận Bàng Đa (nhập vào quận Châu Thành) - lỵ sở đặt tại làng Minh Đức, đổi thành Long Đức); đổi tên quận Ô Lắc thành quận Cầu Ngan (ban đầu chữ Cầu Ngan viết như vậy) - lỵ sở dời từ Ô Lắc về làng Minh Thuận; lập quận Tiểu Cần, lỵ sở đặt tại làng Tiểu Cần; dời lỵ sở quận Bắc Trang từ Bắc Trang về Thanh Xuyên; lỵ sở của quận Càng Long đặt tại An Trường (phần đất này nay thuộc thị trấn Càng Long).
Tháng 11 năm 1940, Thống đốc Nam kỳ lại có Nghị định đổi tên quận Bắc Trang thành quận Trà Cú.
Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành một tỉnh có tên là tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tuy nhiên, tên gọi tỉnh Vĩnh Trà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954, sau đó lại trả về tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ.
Sau năm 1954, theo phân cấp hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Trà Vinh vẫn gồm 5 huyện là: Càng Long, Châu Thành, Cầu Ngang, Tiểu Cần và Trà Cú. Trong khi đó, theo sự phân chia hành chính của chính quyền kháng chiến ngoài 5 huyện này, tỉnh Trà Vinh lại có thêm thị xã Trà Vinh.
Ngày 9 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 16-NV thành lập tỉnh Tam Cần trên cơ sở các quận Vũng Liêm, Trà Ôn, Cầu Kè của tỉnh Vĩnh Long (Trà Ôn, Cầu Kè được tách ra từ tỉnh Cần Thơ và nhập về tỉnh Vĩnh Long từ năm 1948) và quận Tiểu Cần của tỉnh Trà Vinh.
Ngày 21 tháng 7 năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Long Toàn thuộc tỉnh Trà Vinh, quận lỵ đặt tại xã Long Toàn.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh 143-NV về việc giải thể và sáp nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, đồng thời đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình; đổi tên xã Long Đức thành xã Phú Vinh và chọn làm lỵ sở của quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Bình. Theo đó, Vĩnh Bình là một trong 43 tỉnh của "lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa" và là một trong 22 tỉnh của Nam phần Việt Nam Cộng hòa. Lúc này, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình cũng bị đổi tên tên là "Phú Vinh", do lấy theo tên xã Phú Vinh thuộc quận Châu Thành là nơi đặt tỉnh lỵ.
Năm 1957, tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) có 9 quận là Trà Ôn, Vũng Liêm, Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1967 theo sắc lệnh số 06/SL/ĐUHC chính quyền Đệ Nhị Cộng hoà, tách hai quận Vũng Liêm và Trà Ôn ra khỏi tỉnh Vĩnh Bình để nhập vào tỉnh Vĩnh Long, do đó tỉnh Vĩnh Bình cho đến năm 1975 chỉ còn lại bảy quận: Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đồng thời, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình vẫn giữ nguyên tên là "Phú Vinh" cho đến năm 1975.
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Vĩnh Bình mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh.
Tháng 4 năm 1957, xuất phát từ yêu cầu củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định sáp nhập huyện Tiểu Cần vào huyện Cầu Kè. Tháng 2 năm 1961, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định tách xã Long Đức (chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gọi là xã Phú Vinh) ra khỏi huyện Châu Thành để nhập vào thị xã Trà Vinh. Tháng 2 năm 1962, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định thành lập huyện Duyên Hải có địa giới trùng với quận Long Toàn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1967, Liên Tỉnh ủy Miền Tây cũng quyết định tách hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn từ tỉnh Trà Vinh để nhập về tỉnh Vĩnh Long. Từ giai đoạn này, tỉnh Trà Vinh cơ bản có địa giới hành chính trùng với hiện nay, bao gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện là thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Cầu Kè, Càng Long, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn duy trì tỉnh Trà Vinh cho đến đầu năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Cửu Long, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Vĩnh Long. Năm 1986, sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, tỉnh Cửu Long bao gồm thị xã Vĩnh Long (tỉnh lỵ tỉnh Cửu Long), thị xã Trà Vinh và 12 huyện: Bình Minh, Cầu Kè, Cầu Ngang, Càng Long, Châu Thành, Duyên Hải, Long Hồ, Tam Bình, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Ngày 05 tháng 5 năm 1992, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết giải thể tỉnh Cửu Long để tái lập tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân số 961.638 người, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú..
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, chuyển thị xã Trà Vinh thành thành phố Trà Vinh trực thuộc tỉnh Trà Vinh[9].
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thị xã Duyên Hải trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Duyên Hải[10].
Ngày 15 tháng 2 năm 2016, thành phố Trà Vinh được công nhận là đô thị loại II[11].
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú.
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 11 phường, 10 thị trấn và 85 xã.[12]
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Trà Vinh | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh năm 2022[13] |
Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 859/QĐ-TTg về việc công nhận xã An toàn khu tại tỉnh Trà Vinh[14]
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định 1372/QĐ-UBND về việc công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành hết hiệu lực toàn bộ[15]
Với 1.019.258 người dân[16], năm 2022, GRDP đạt 72.440,944 tỉ đồng (tăng trưởng 3,45% so với năm 2021), GRDP bình quân đầu người đạt 70,72 triệu đồng.[17]
Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 72.440 tỷ đồng, tăng 8.440 tỷ đồng so với năm 2021. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 chiếm tỷ trọng 32,78% giảm còn 30,29% năm 2022; khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ 67,22% tăng lên 69,71% ; GRDP bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 71,072 triệu đồng/người. (tăng 8,242 triệu đồng so với năm 2021).[17]
Năm 2023, tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 7,5% trở lên (có tính giá trị nhiệt điện) hoặc 7,75% nếu không tin giá trị nhiệt điện. GRDP bình quân đầu người đạt 75,96 triệu đồng/người/năm (có nhiệt điện) và 62,04 triệu đồng/người/năm (không nhiệt điện); tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GRDP đạt 70,58% (có nhiệt điện), 63,98% (không nhiệt điện).[18]
Ngoài ra, tỉnh đặt mục tiêu một số chỉ tiêu xã hội như tạo việc làm mới cho 23.000 lao động, trong đó có 900 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng chiếm 69,3%. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo 1,47%..[18]
Đầu năm học 2022-2023, cả tỉnh có 120 trường mầm non; 297 trường phổ thông, giảm, bao gồm: 160 trường tiểu học, 96 trường trung học cơ sở, 29 trường trung học phổ thông, 05 trường phổ thông cơ sở và 07 trường trung học. Đầu năm học 2022-2023, cả tỉnh có 179.274 học sinh phổ thông, tăng 0,93% so với đầu năm học trước.
Năm 2022, trên địa bàn tỉnh có 02 trường cao đẳng và 01 trường đại học. Số giảng viên là 1.104 người, bao gồm 102 giảng viên cao đẳng và 1.002 giảng viên đại học. Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 281 người.
Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần làm giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng và một số trường nổi tiếng tại Trà Vinh:
Cộng đồng dân cư tỉnh Trà Vinh gồm các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa và một số dân tộc thiểu số khác. Trong đó, người Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 67%), người Khmer chiếm 32%, là tỉnh có người Khmer sinh sống đông thứ 2 ở vùng ĐBSCL cũng như cả nước (sau tỉnh Sóc Trăng), người Hoa và dân tộc thiểu số khác chiếm tổng số gần 1%.
Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù[22].
Quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc gắn liền với các đặc điểm sinh sống, lao động, văn hóa và tôn giáo. Mỗi dân tộc ở Trà Vinh có phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết và món ăn đặc thù riêng, tạo nên những phong tục tập quán rất phong phú và đa dạng.[23]
Trà Vinh là một tỉnh có dân số thấp trong vùng ĐBSCL, đứng thứ 11/13 tỉnh thành trong khu vực, quy mô dân số khoảng 1.019.258 người, mật độ dân số bình quân đạt 426 người/km2 (thấp hơn mật độ dân số trung bình của vùng ĐBSCL).
Tỉnh có nguồn lao động dồi dào, dân số trong tuổi lao động chiếm khoảng 55% tổng dân số toàn tỉnh, trong đó, đa phần vẫn là lao động nông thôn, chiếm trên 80% và lao động trong khu vực nông nghiệp cao trên 40%; tỷ lệ lao động trong công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn thấp.
*Ngôn ngữ phổ biến ở Trà Vinh là tiếng Việt, mặc dù có các dân tộc khác nhưng tiếng nói chung vẫn là tiếng Việt.
Toàn tỉnh có 465 cơ sở tín ngưỡng với các loại hình như: Thờ thành hoàng, thờ anh hùng dân tộc, thờ tổ tiên, thờ mẫu...; về tôn giáo có 09 tôn giáo như: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Hồi giáo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo, với 4.373 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và 596.925 tín đồ, chiếm 59,15% so với dân số chung của tỉnh. Ngoài ra, còn có 11 hiện tượng tôn giáo mới chưa được Nhà nước công nhận.[24]
Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hóa đa dạng, đặc biệt là văn hóa vật thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới), Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ cúng trăng), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hóa khác của người Kinh, người Hoa như Lễ hội nghinh Ông tại Mỹ Long (lễ hội nghinh ông diễn ra vào ngày 10 đến 12 tháng 5 hằng năm), Vu lan thắng hội, Tiết Trùng Cửu,...
Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hòa quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc trên khu đất rộng 4ha, trong thắng cảnh Ao Bà Om. Theo thống kê, trên địa bàn Trà Vinh có tới 142 chùa Khmer, vượt xa số lượng của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Trà Vinh cộng lại. Đặc điểm chung của văn hóa người Khmer Trà Vinh thường gắn bó với các ngôi chùa Nam tông Khmer và sống rất gần gũi với cây xanh.
Riêng tại Thành phố Trà Vinh, có tới trên dưới 15.000 cây, với nhiều chủng loại và trong số đó có rất nhiều cây cổ thụ, với khoảng gần 1.000 cây trên trăm tuổi, được trồng từ thời Pháp. Nhờ cây cối bao bọc, khí hậu ở đây rất mát mẻ, dễ chịu. Vì vậy, với nền văn hóa gắn liền với cây xanh, Trà Vinh được mệnh danh là “thành phố trong rừng xanh”, “thành phố công viên” hay “thành phố cây cổ thụ”[25].
Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3ha đã hơn 100 năm nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850 với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer.
Lễ hội cúng ông (Phúc Đức Chính Thần, địa phương gọi là "ông Bổn", tiếng Hoa là Bửng Thào Côn) của người Hoa gốc Triều Châu vào rằm tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè.
Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo như Bãi San, Đức Mỹ... Nhà thờ tại thành phố Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển. Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long.
Trà Vinh có nhiều món ăn và thức uống đã trở thành đặc sản địa phương như rượu Xuân Thạnh; bánh tét Trà Cuôn; dừa sáp Cầu Kè; bún nước lèo; tôm khô Vinh Kim; bánh canh Bến Có; bánh ống lá dứa; mắm rươi; bánh xèo; cốm dẹp trộn dừa Khmer; các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; bánh tráng Ba Se; mắm kho; lươn um lá cách; cá cháy Cầu Quan; tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ; chuột đồng khìa nước dừa; vọp chong nướng lụi; bánh tráng nướng Giáo Loan (bánh tráng béo kèm nước cốt dừa); v.v.
Các loại trái cây đặc sản gồm có: dừa sáp, chuối tá quạ.
Trà Vinh có 04 tuyến Quốc lộ chính là 53, 53B, 54 và 60, kết nối tỉnh Trà Vinh thông suốt với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long (cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 130 km theo hướng Quốc lộ 60 và cách thành phố Cần Thơ khoảng 90 km theo hướng Quốc lộ 53). Quốc lộ 53 nối liền các thị trấn trong tỉnh với Thành phố Trà Vinh và thành phố Vĩnh Long. Đây là một trong những tuyến đường bộ nối Trà Vinh với các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam[22].
Hai tuyến cầu nối tỉnh Sóc Trăng - Trà Vinh - Bến Tre bao gồm Cầu Đại Ngãi [26]( chưa hoàn thành) nối 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, Cầu Cổ Chiên ( đã hoàn thành) nối 2 tỉnh Trà Vinh và Bến Tre. Đồng thời cũng là 2 trong 4 cầu quan trọng trên tuyến quốc lộ 60, các cầu khác là cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tỉnh Trà Vinh được đầu tư 02 dự án cao tốc và tuyến đường hành lang ven biển:
Tuyến cao tốc: Hồng Ngự (Đồng Tháp) - Trà Vinh (đến Khu kinh tế Định An).
Tuyến cao tốc: Thành phố Hồ Chí Minh - Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh - Sóc Trăng và Tuyến đường hành lang ven biển kết nối với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang và Thành phố Hồ Chí Minh quy mô cấp 3 đồng bằng, đảm bảo lưu thông đường bộ.
Trà Vinh có bờ biển dài trên 65 km, được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cổ Chiên (Cung Hầu) và Định An rất thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy. Từ Trà Vinh đi Bến Tre, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh theo tuyến sông Tiền rất thuận lợi, từ biển Đông đi qua kênh đào Trà Vinh đến cảng Cần Thơ là tuyến vận tải đường thủy chính của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long để thông thương với quốc tế[22].
Nhờ lợi thế địa lý, Trà Vinh còn là cửa ngõ thông quan của khu vực đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống cảng sông, cảng biển và đường luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Tuyến luồng này đóng vai trò là huyết mạch ổn định lâu dài, nâng cao thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế và trở thành cửa ngõ giao thương quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến các khu vực khác trong nước và trên thế giới bằng đường thủy, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế địa phương.
Theo quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030[27], tầm nhìn đến năm 2050 thì hệ thống cảng biển Trà Vinh là cảng biển loại I, bao gồm: Khu bến Duyên Hải - Định An (tiếp nhận tàu trọng tải đến 50.000 tấn), Khu bến cảng Trà Cú - Kim Sơn (tiếp nhận tàu trọng tải đến 20.000 tấn) và các bến phao, khu neo đậu chuyển tải, tránh, trú bão. Trong đó, Khu bến Duyên Hải - Định An là bến tổng hợp, container, hàng lỏng/khí với chức năng phục vụ vùng đồng bằng sông Cửu Long.