Thanh Chương
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Thanh Chương | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Bắc Trung Bộ | ||
Tỉnh | Nghệ An | ||
Huyện lỵ | thị trấn Dùng (thị trấn) | ||
Trụ sở UBND | số 2, đường Nguyễn Sỹ Sách, thị trấn Dùng, huyện Thanh Chương | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 28 xã | ||
Thành lập | 1984 | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 18°43′B 105°16′Đ / 18,72°B 105,27°Đ | |||
| |||
Diện tích | 1.228,3 km2 | ||
Dân số (2019) | |||
Tổng cộng | 240.808 người | ||
Mật độ | 221 người/km2 | ||
Dân tộc | Kinh, Thái, Mông, Đan Lai... | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 428[1] | ||
Biển số xe | 37-E1 | ||
Website | thanhchuong | ||
Thanh Chương là một huyện trung du, miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Nghệ An, Việt Nam.[2][3]
Huyện Thanh Chương nằm ở phía tây nam của tỉnh Nghệ An, có vị trí địa lý:
Thanh Chương được UNESCO công nhận là một trong các huyện thuộc Khu dự trữ sinh quyển Thế giới vào tháng 9/2017 (Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An).
Sông Lam chảy xuyên huyện Thanh Chương, dãy Trường Sơn ở phía Tây Nam làm biên giới tự nhiên với Lào, Cửa khẩu Thanh Thủy cách thành phố Viêng Chăn 435 km.
Trung tâm của huyện là Thị trấn Dùng (hay còn gọi là thị trấn Thanh Chương). Huyện lỵ cách thành phố Vinh 45 km.
Thanh Chương chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc vào mùa đông, gió phơn Tây Nam (gió Lào) vào mùa hè. Mùa đông mưa rét mỗi khi có không khí lạnh tràn về, nhiệt độ trung bình dao động từ 13 - 18 độ C. Mùa hè nóng nhất từ tháng 4 đến tháng 7 có khi lên đến 40 - 41 độ C.
Vào mùa thu, nơi đây cũng chịu ảnh hưởng của nhiều cơn bão nhiệt đới gây thiệt hại lớn cho người dân.
Thanh Chương có 7 nhóm đất (xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít): Nhiều nhất là loại đất pheralít đỏ vàng đồi núi thấp rồi đến đất pheralít đỏ vàng vùng đồi, đất phù sa, đất pheralít xói mòn trơ sỏi đá, đất pheralít mùn vàng trên núi, đất lúa vùng đồi núi và đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ và lũ tích[4]. Nhìn chung đất đai cằn cỗi, nhiều sỏi đá. Chỉ một vài vùng đất có thẻ trồng cây công nghiệp (chè, tiêu) ở các xã Hạnh Lâm, Thanh Hà, Thanh Thủy...
Núi Giăng Màn cao 1.026m trên biên giới Việt - Lào là đỉnh núi cao nhất huyện.
Số dân Thanh Chương năm 1930 có 64.074 người. Năm 2000 có 228.603 người, đến năm 2019 là 240.808 người. Tốc độ tăng trưởng dân số đã bị chậm lại kể từ dầu thế kỷ XXI bởi làn sóng di cư kinh tế đến Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Sài Gòn.
Đa số là người Kinh, một số rất ít người dân tộc như Thái, Mông, Đan Lai.
Thanh Chương là huyện nghèo, thuần túy về nông lâm nghiệp với các sản phẩm chủ lực là gạo, ngô, khoai, sắn, cam và chè. Công nghiệp không thực sự phát triển với một số nhà máy như Nhà máy Sắn Thanh Ngọc, Nhà máy Gạch Ngói Rào Gang.
Thanh Chương thời nguyên thủy thuộc nước Việt Thường.
Năm 111 TCN (thời thuộc Hán) vùng đất này nằm trong huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân.
Từ năm 602 (thời thuộc Tuỳ), nằm trong huyện Cửu Đức, quận Nhật Nam.
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722) thì nơi đây là địa bàn hoạt động chủ yếu của nghĩa quân.
Thời Nhà Ngô (939-965), Thanh Chương là thủ phủ Châu Hoan, nơi đặt dinh trấn thủ của quan thứ sử Đinh Công Trứ.[5]
Thời thuộc nhà Minh đô hộ (1406-1428), Thanh Chương là đất huyện Thổ Du phủ Nghệ An.
Thời nhà Lê (1428-1786) huyện được gọi là Thanh Giang, sau đổi thành Thanh Chương (Năm 1729, do húy tên chúa Trịnh Giang).
Trong danh sách phủ huyện thời Hồng Đức (1479-1497) được chép trong Thiên Nam dư hạ tập vẫn còn chép là Thanh Giang. Năm 1490 (năm Hồng Đức thứ 21), Thanh Chương là một huyện thuộc phủ Đức Quang (cùng với Hương Sơn, La Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân, Chân Phúc), xứ Nghệ An.
Năm 1826 (năm Minh Mạng thứ 7), huyện Thanh Chương tách khỏi phủ Đức Quang nhập vào phủ Anh Sơn.
Năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12), trấn Nghệ An tách thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Huyện Thanh Chương thuộc phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An.
Năm 1919, nhà Nguyễn và Pháp bỏ cấp phủ, huyện Thanh Chương trực thuộc tỉnh Nghệ An. Các tổng cũ được phân chia thành 12 xã.
Đầu năm 1954, theo chủ trương phân chia lại cấp xã của Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên Khu IV thì huyện Thanh Chương trên cơ sở 12 xã cũ đã chia thành 41 xã mới.
Năm 1969, theo quyết định số 159 - NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, huyện Thanh Chương đã hình thành nên một số xã mới.
Năm 1984, thành lập thị trấn Thanh Chương, thị trấn huyện lỵ huyện Thanh Chương.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 3 xã Thanh Tường, Thanh Văn và Thanh Hưng thành xã Đại Đồng.[6]
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết số 1243/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Nghệ An giai đoạn 2023–2025 (nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 12 năm 2024)[7]:
Hiện nay huyện Thanh Chương có 1 thị trấn và 28 xã.
Thanh Chương ngày nay nặng về văn hóa họ tộc, với nhiều dòng họ nổi tiếng như Nguyễn Sỹ, Nguyễn Tài, Nguyễn Cảnh... Ảnh hưởng của nho giáo vẫn mạnh với vùng đất này.
Huyện này là một trong những vùng đất truyền thống của Đảng Cộng sản Việt Nam, trung tâm hoạt động của chính quyền xô viết giai đoạn 1930-1931.
Hầu hết chùa chiền miếu mạo đã bị phá hủy trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) và Cải cách ruộng đất (1953-1956). Hiện còn một số nhà thờ Kitô giáo thuộc Giáo phận Vinh (có 3 xứ, 17 họ chiếm khoảng 3,7% dân số toàn huyện) ở Thanh Đồng, Thanh Phong,...
Trong quyển Nghệ An ký Đốc học Bùi Dương Lịch có ghi rằng:
Các vị đỗ đạt, làm quan thời phong kiến:
Danh lam thắng cảnh:
Các ca khúc nổi tiếng về Thanh Chương:
Năm 1919, chính quyền thực dân phong kiến bỏ cấp phủ, huyện Thanh Chương trực thuộc tỉnh Nghệ An. Các tổng cũ được phân chia thành 12 xã cụ thể như sau:
Đầu năm 1954, theo chủ trương phân chia lại cấp xã của UBKCHC Liên Khu IV thì huyện Thanh Chương trên cơ sở 12 xã cũ đã chia thành 41 xã mới như sau:
Ngày 15 tháng 4 năm 1967, theo quyết định số 140/NV của Bộ trưởng bộ Nội vụ:
Ngày 24 tháng 3 năm 1969, theo quyết định số 159 - NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, huyện Thanh Chương đã hình thành nên một số xã mới do hợp nhất từ xã cũ như sau:
Ngày 21 tháng 4 năm 1969, Bộ Nội vụ ra quyết định số 201/NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, huyện Thanh Chương tiếp tục hình thành nên một số xã mới do hợp nhất từ xã cũ như sau:
Đến đầu năm 1971, các xã Bình Dương, Tường Đồng, Thọ Lâm... được tách ra thành các xã như cũ.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Thanh Chương thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 36 xã: Cát Văn, Đồng Văn, Hạnh Lâm, Ngọc Sơn, Phong Thịnh, Thanh An, Thanh Chi, Thanh Đồng, Thanh Dương, Thanh Giang, Thanh Hà, Thanh Hòa, Thanh Hưng, Thanh Hương, Thanh Khai, Thanh Khê, Thanh Lâm, Thanh Liên, Thanh Lĩnh, Thanh Long, Thanh Lương, Thanh Mai, Thanh Mỹ, Thanh Ngọc, Thanh Nho, Thanh Phong, Thanh Thịnh, Thanh Thủy, Thanh Tiên, Thanh Tùng, Thanh Tường, Thanh Văn, Thanh Xuân, Thanh Yên, Võ Liệt, Xuân Tường.
Ngày 27 tháng 10 năm 1984, thành lập thị trấn Thanh Chương, thị trấn huyện lỵ huyện Thanh Chương trên cơ sở 64 ha đất của xã Đồng Văn; 92 ha đất của xã Thanh Ngọc và 124 ha đất của xã Thanh Đồng.
Từ 1991 đến nay, huyện Thanh Chương thuộc tỉnh Nghệ An.
Ngày 10 tháng 4 năm 2002, thành lập xã Thanh Đức trên cơ sở 17.000,76 ha diện tích tự nhiên và 4.870 nhân khẩu của xã Hạnh Lâm.
Ngày 9 tháng 2 năm 2009, điều chỉnh một phần dân số của huyện Tương Dương về các khu tái định cư thuộc huyện Thanh Chương (dân cư của các xã giải thể để xây dựng hồ thủy điện Bản Vẽ), đồng thời:
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 3 xã Thanh Tường, Thanh Văn và Thanh Hưng thành xã Đại Đồng.[6]
Ngày 1 tháng 12 năm 2024, sáp nhập thị trấn Thanh Chương và 2 xã Thanh Lĩnh, Thanh Đồng thành thị trấn Dùng; sáp nhập 2 xã Thanh Hòa và Thanh Nho thành xã Minh Sơn; sáp nhập 2 xã Thanh Chi và Thanh Khê thành xã Thanh Quả; sáp nhập 2 xã Thanh Long và Võ Liệt thành xã Kim Bảng; sáp nhập 2 xã Xuân Tường và Thanh Dương thành xã Xuân Dương; sáp nhập 3 xã Thanh Lương, Thanh Yên và Thanh Khai thành xã Minh Tiến; sáp nhập 2 xã Thanh Mai và Thanh Giang thành xã Mai Giang.
Huyện Thanh Chương có 1 thị trấn Dùng (huyện lỵ) và 28 xã: Cát Văn, Đại Đồng, Đồng Văn, Hạnh Lâm, Kim Bảng, Mai Giang, Minh Sơn, Minh Tiến, Ngọc Lâm, Ngọc Sơn, Phong Thịnh, Thanh An, Thanh Đức, Thanh Hà, Thanh Hương, Thanh Lâm, Thanh Liên, Thanh Mỹ, Thanh Ngọc, Thanh Phong, Thanh Quả, Thanh Sơn, Thanh Thịnh, Thanh Thủy, Thanh Tiên, Thanh Tùng, Thanh Xuân, Xuân Dương.
Thanh Chương có nhiều đặc sản nổi tiếng, đặc sản nơi đây gắn liền với những người nông dân với việc trồng rừng, làm ruộng, chăn nuôi,...
Nhắc đến Thanh Chương nhắc đến câu thành ngữ "Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn". Nhút Thanh Chương nổi tiếng nức lòng người Thanh Chương và ấm lòng người Xứ Nghệ có hai loại: Nhút là gì? nói chính xác là nhút mít Thanh Chương, Nhút Thanh Chương làm từ quả mít; loại ngon nhất là nhút làm từ xơ của quả mít chín, trong đó ngon nhất là quả mít bở (mít ướt) hoặc mít dai (mít mật), loại này hiếm, nhà nào trồng nhiều mít mới được thưởng thức thường xuyên, loại này không thấy bán trên thị trường, loại này xào ngon, nấu canh ngon, vắt chấm ngon, nộm ngon và nấu canh chua thì hảo hạng; loại ngon thứ nhì là nhút làm từ quả mít xanh (quả mít còn non), loại này trên thị trường có bán rất nhiều, khoảng 70.000 đồng/hũ/5 lít, loại này chủ yếu là xào, nộm (gỏi), và nấu canh chua.
Ngoài ra còn có các đặc sản khác đã đi vào các câu ca dao, câu hát ở vùng đất này:
"Thanh Chương ngon cá sông Giăng. Ngon khoai La Mạc, ngon măng chợ Chùa"
"Ai hay nước chát măng chua. Đi qua chợ Chùa thì tới Minh Sơn"
"Ai hay mít ngọt, mui bùi. Có về Cát Ngạn với tôi cùng về"
"Ai hay tương ngọt nhút chua. Mời về Ó, Nại mà mua ít nhiều"
"Quê ta ngọt mía Nam Đàn
Ngon khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài" (Chợ Rộ ở xã Võ Liệt)...
Đặc sản nổi tiếng khắp cả tỉnh và đã trở thành thương hiệu số 1 của Nghệ An đó chính là "Gà đồi Thanh Chương", thị gà có nhiều cách chế biến như gà luộc, gà nướng, gà rang sả ớt, và đặc biệt là gà nấu xáo, sự khác biệt ở gà nấu xáo Thanh Chương đó là xương gà được băm nhỏ để làm viên nên ăn rất thơm ngon và giòn.Gà ở Thanh Chương được nuôi thả trên những vườn đồi thoai thoải nên thịt gà săn chắc. Gà Thanh Chương đã trở thành món ngon của người Xứ Nghệ và là đặc sản để tiếp đón người thân, bạn bè và du khách thập phương khi đến với Xứ Nghệ, trong các bữa ăn hàng ngày.
Các tài liệu liên quan