Mở rộng ra, khái niệm trực giao còn được dùng để chỉ sự tách biệt giữa các chức năng nhất định trong một hệ thống. Thuật ngữ cũng có ý nghĩa chuyên biệt trong nhiều ngành khác bao gồm nghệ thuật và hóa học.
Hai vectơ x và y trong không gian tích trongV là trực giao nếu tích trong của chúng bằng 0.[2] Quan hệ này được ký hiệu là .
Hai không gian vectơ con, A và B của một không gian tích trong V, được gọi là không gian con trực giao nếu mọi vectơ thuộc A trực giao với mọi vectơ thuộc B. Không gian con lớn nhất trực giao với một không gian con cho trước trong V được gọi là phần bù trực giao của nó.
Cho một mô đunM và đối ngẫu của nó M*, một phần tử m' của M* và một phần tử m của M là trực giao nếu . Hai tập hợp S′ ⊆ M∗ và S ⊆ M trực giao nếu mỗi phần tử của S′ trực giao với mỗi phần tử của S.[3]
Một tập hợp các vectơ trong một không gian tích trong được gọi là trực giao theo cặp nếu từng cặp vectơ là trực giao. Một tập như vậy gọi là tập trực giao.
Một không gian vectơ với một dạng song tuyến tính khái quát hóa trường hợp không gian tích trong. Khi dạng song tuyến tính áp dụng lên hai vectơ có kết quả bằng 0 thì chúng trực giao. Trường hợp với một mặt phẳng giả Euclid, khái niệm trực giao hypebol. Trong sơ đồ trên, các trục x′ and t′ trực giao hypebol với mọi ϕ cho trước.
Trong không gian Euclid, hai vectơ trực giao khi và chỉ khitích vô hướng của chúng bằng 0, tức là chúng tạo thành một góc 90° (π/2 radian), hay khi một trong hai vectơ không.[4] Vì vậy sự trực giao của các vectơ là sự mở rộng khái niệm tính vuông góc cho không gian với chiều bất kỳ.
Phần bù trực giao của một không gian con là không gian bao gồm các vectơ trực giao với mỗi vectơ trong không gian con đó. Trong một không gian vectơ Euclid ba chiều, phần bù trực giao của một đường thẳng qua gốc tọa độ là một mặt phẳng qua gốc tọa độ vuông góc với nó, và ngược lại.
Lưu ý rằng khái niệm hai mặt phẳng vuông góc trong hình học không tương ứng với phần bù trực giao, vì trong không gian ba chều một cặp vectơ trong đó mỗi vectơ đến từ một mặt phẳng trong hai mặt phẳng vuông góc, có thể tạo với nhau một góc bất kỳ.
Trong không gian Euclid bốn chiều, phần bù trực giao của một đường thẳng là một siêu phẳng và ngược lại, còn phần bù trực giao của một mặt phẳng cũng là một mặt phẳng.
Sử dụng tích phân, ta có thể sử dụng công thức sau để định nghĩa tích trong của hai hàmf và g so với hàm trọng số w trên một đoạn [a, b]:
Trong trường hợp đơn giản, w(x) = 1.
Ta nói rằng hai hàm phân biệt f và gtrực giao nếu tích trong của chúng (tức là giá trị của tích phân xác định trên) bằng 0:
Sự trực giao của hai hàm số đối với một tích trong không dẫn đến sự trực giao đối với một tích trong khác.
Ta có thể viết chuẩn đối với tích trong này như sau
Các hàm trong một họ hàm {fi: i = 1, 2, 3,...}trực giao đối với w trên đoạn [a, b] nếu
Các phần tử của một tập hợp hàm trực chuẩn đối với w trên đoạn [a, b] nếu
với
là ký hiệu delta Kronecker. Nói cách khác, mỗi cặp của chúng (trừ các cặp ghép một hàm với chính nó) đều trực giao, và chuẩn của mỗi hàm đều bằng 1. Xem thêm cụ thể về đa thức trực giao.
Các vectơ (1, 3, 2)T, (3, −1, 0)T, (1, 3, −5)T trực giao với nhau, bởi vì (1)(3) + (3)(−1) + (2)(0) = 0, (3)(1) + (−1)(3) + (0)(−5) = 0, và (1)(1) + (3)(3) + (2)(−5) = 0.
Hai vectơ (1, 0, 1, 0,...)T và (0, 1, 0, 1,...)T trực giao. Tích vô hướng của chúng bằng 0. Vì vậy ta có thể tổng quát hóa để xét các vectơ trong Z2n:
với một số nguyên dương bất kỳ a, và với 1 ≤ k ≤ a − 1, các vectơ có dạng trên là trực giao, ví dụ: , , trực giao.
Các hàm 2t + 3 và 45t2 + 9t − 17 trực giao theo trọng số bằng đơn vị trên đoạn từ −1 đến 1:
Các hàm 1, sin(nx), cos(nx) với: n = 1, 2, 3,... trực giao với tích phân Riemann trên các đoạn [0, 2π], [−π, π], hay trên bất kỳ đoạn đóng nào với độ dài 2π. Đây là một kết quả quan trọng trong phân tích chuỗi Fourier.
Cainabel hay còn biết tới là Huyết Thần (Chân Huyết) 1 trong số rất nhiều vị thần quyền lực của Yggdrasil và cũng là Trùm sự kiện (Weak Event Boss) trong Yggdrasil