Tàu ngầm U-123, một chiếc Type IXB tiêu biểu, đang rời cảng Lorient, ngày 8 tháng 6, 1941
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-65 |
Đặt hàng | 16 tháng 7, 1937 |
Xưởng đóng tàu | DeSchiMAG AG Weser, Bremen |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 953 |
Đặt lườn | 6 tháng 12, 1938 |
Hạ thủy | 6 tháng 11, 1939 |
Nhập biên chế | 15 tháng 2, 1940 |
Tình trạng | Bị tàu khu trục Anh HMS Douglas đánh chìm trong Bắc Đại Tây Dương, 28 tháng 4, 1941 [1] |
Đặc điểm khái quát[2] | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type IXB |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,70 m (15 ft 5 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm | 230 m (750 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 44 thủy thủ |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 26 817 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-65 là một tàu ngầm tuần dương Lớp Type IX thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra, đánh chìm mười hai tàu buôn với tổng tải trọng 66.174 GRT, đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn với tổng tải trọng 22.490 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-65 bị tàu khu trục Hải quân Hoàng gia Anh HMS Douglas thả mìn sâu đánh chìm trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Iceland vào ngày 28 tháng 4, 1941.
Thiết kế của tàu ngầm Type IXB là phiên bản nâng cấp nhỏ từ Type IXA, tăng thêm trữ lượng nhiên liệu để kéo dài tầm xa hoạt động.[2] Chúng có trọng lượng choán nước 1.051 t (1.034 tấn Anh) khi nổi và 1.178 t (1.159 tấn Anh) khi lặn.[5] Con tàu có chiều dài chung 76,50 m (251 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 58,75 m (192 ft 9 in), mạn tàu rộng 6,51 m (21 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,92 m (6,3 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 18,2 kn (33,7 km/h), và tầm hoạt động tối đa 12.000 nmi (22.000 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[5] Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất 1.000 PS (740 kW; 990 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,3 kn (13,5 km/h), và tầm hoạt động 64 nmi (119 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[5] Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi 53,3 cm (21 in). Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo 10,5 cm (4,1 in) SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không 3,7 cm (1,5 in) SK C/30 và hai pháo phòng không 2 cm (0,79 in) C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.[5]
U-65 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 7, 1937,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser của hãng DeSchiMAG ở Bremen vào ngày 6 tháng 12, 1938.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 6 tháng 11, 1939,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 15 tháng 2, 1940[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Hans-Gerrit von Stockhausen.[1]
U-65 khởi hành từ cảng Wilhelmshaven vào ngày 9 tháng 4, 1940 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi hoạt động dọc bờ biển Na Uy để đánh chặn các tàu vận tải Đồng Minh hỗ trợ cho Chiến dịch Na Uy.[6] Vào ngày 13 tháng 4, chiếc tàu ngầm đã tấn công một nhóm tàu khu trục ở vị trí về phía Bắc Bergen, Na Uy, nhưng các quả ngư lôi đã không kích nổ. Tàu khu trục đối phương đã phản công, gây một số hư hại nhẹ cho U-65, nhưng nó thoát được cuộc tấn công,[1] và quay trở về cảng Wilhelmshaven vào ngày 14 tháng 5.[4]
Dưới quyền chỉ huy cùa hạm trưởng mới, Đại úy Hải quân Joachim Hoppe, U-65 xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 12 tháng 4, 1941 cho chuyến tuần tra thứ sáu, cũng là chuyến cuối cùng, để tiếp tục hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương.[7] Ở vị trí về phía Nam Iceland vào ngày 28 tháng 4, nó bị tàu khu trục Hải quân Hoàng gia Anh HMS Douglas thả mìn sâu đánh chìm tại tọa độ 60°4′B 15°45′T / 60,067°B 15,75°T. Toàn bộ 50 thành viên thủy thủ đoàn của U-65 đều đã tử trận.[1]
U-65 đã đánh chìm được mười hai tàu buôn với tổng tải trọng 66.174 GRT, đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn với tổng tải trọng 22.490 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[8] |
---|---|---|---|---|
21 tháng 6, 1940 | Berenice | Netherlands | 1.177 | Bị đánh chìm |
22 tháng 6, 1940 | Monique | France | 7.011 | Bị đánh chìm |
30 tháng 6, 1940 | Clan Ogilvy | Anh Quốc | 5.802 | Bị hư hại |
1 tháng 7, 1940 | Amstelland | Netherlands | 8.156 | Bị hư hại |
15 tháng 9, 1940 | Hird | Norway | 4.950 | Bị đánh chìm |
17 tháng 9, 1940 | Tregenna | Anh Quốc | 5.242 | Bị đánh chìm |
15 tháng 11, 1940 | Havbør | Norway | 7.614 | Bị đánh chìm |
15 tháng 11, 1940 | Kohinur | Anh Quốc | 5.168 | Bị đánh chìm |
16 tháng 11, 1940 | Fabian | Anh Quốc | 3.059 | Bị đánh chìm |
18 tháng 11, 1940 | Congonian | Anh Quốc | 5.065 | Bị đánh chìm |
21 tháng 12, 1940 | Charles Pratt | Panama | 8.982 | Bị đánh chìm |
24 tháng 12, 1940 | British Premier | Anh Quốc | 5.872 | Bị đánh chìm |
27 tháng 12, 1940 | Risanger | Norway | 5.455 | Bị đánh chìm |
31 tháng 12, 1940 | British Zeal | Anh Quốc | 8.532 | Bị hư hại |
2 tháng 1, 1941 | Nalgora | Anh Quốc | 6.579 | Bị đánh chìm |