Tàu ngầm U-37, một chiếc Type IXA tiêu biểu, tại cảng Lorient năm 1940
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-43 |
Đặt hàng | 21 tháng 11, 1936 |
Xưởng đóng tàu | DeSchiMAG AG Weser, Bremen |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 948 |
Đặt lườn | 15 tháng 8, 1938 |
Hạ thủy | 23 tháng 5, 1939 |
Nhập biên chế | 26 tháng 8, 1939 |
Tình trạng | Bị máy bay từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Santee đánh chìm về phía Tây Nam quần đảo Azores, 30 tháng 7, 1943 [1][2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type IXA |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,40 m (30 ft 10 in) [3] |
Mớn nước | 4,70 m (15 ft 5 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm | 230 m (750 ft) [4] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 44 thủy thủ |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[2][5] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 24 266 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-43 là một tàu ngầm tuần dương Lớp Type IX thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực hiện được tổng cộng mười bốn chuyến tuần tra, đánh chìm tổng cộng 21 tàu buôn với tổng tải trọng 117.036 GRT, ngoài ra nó còn gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn tải trọng 9.131 GRT và gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng 10.350 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-43 bị máy bay xuất phát từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Santee đánh chìm trong Đại Tây Dương về phía Tây Nam quần đảo Azores vào ngày 30 tháng 7, 1943.[1]
Thiết kế của tàu ngầm Type IX là phiên bản cải biến từ tàu ngầm Type IA.[6] Chúng có trọng lượng choán nước 1.032 t (1.016 tấn Anh) khi nổi và 1.153 t (1.135 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 76,50 m (251 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 58,75 m (192 ft 9 in), mạn tàu rộng 6,51 m (21 ft 4 in), chiều cao 9,40 m (30 ft 10 in) và mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,92 m (6,3 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 18,2 kn (33,7 km/h), và tầm hoạt động tối đa 10.500 nmi (19.400 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[4] Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất 1.000 PS (740 kW; 990 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,7 kn (14,3 km/h), và tầm hoạt động 65–78 nmi (120–144 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[4] Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi 53,3 cm (21 in). Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo 10,5 cm (4,1 in) SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không 3,7 cm (1,5 in) SK C/30 và hai pháo phòng không 2 cm (0,79 in) C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.[4]
U-43 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 11, 1936, rõ ràng là một vi phạm những điều khoản của Hiệp ước Versailles,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser của hãng DeSchiMAG ở Bremen vào ngày 15 tháng 8, 1938.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 5, 1939,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 26 tháng 8, 1939[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Wilhelm Ambrosius.[2]
Trong thành phần Chi hạm đội U-boat 6 đặt căn cứ tại Kiel,[2] U-43 xuất phát từ cảng này cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh vào ngày 6 tháng 11, 1939. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo Shetland và Faroe để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động trong vùng biển Đại Tây Dương về phía Tây vịnh Biscay.[7] Tại đây vào ngày 16 tháng 11, nó tấn công chiếc tàu buôn Anh Arlington Court 4.915 GRT vốn đang trong hành trình từ Argentina đi sang Anh bị phân tán khỏi Đoàn tàu SL 7A, và hai quả ngư lôi đã đánh chìm Arlington Court về phía Tây Nam Start Point, Devon.[8] Ngay sau đó chiếc tàu ngầm bị các tàu hộ tống cho đoàn tàu truy lùng trong 20 giờ, và chịu đựng số số hư hại do mìn sâu.[2]
Tiếp tục chuyến tuần tra, trong vịnh Biscay vào ngày 22 tháng 11, U-43 tấn công Đoàn tàu 14 BS và đánh chìm chiếc tàu buôn Pháp Arijon 4.374 GRT.[9] Một lần nữa chiếc tàu ngầm bị các tàu vũ trang hộ tống phản công với 23 quả mìn sâu được thả xuống, nhưng U-43 thoát được mà không bị hư hại.[2] Đến ngày 25 tháng 11, ở vị trí về phía Tây Bắc mũi Finisterre (Tây Bắc Tây Ban Nha), U-43 tiếp tục tấn công chiếc tàu tiếp than Anh Uskmouth 2.483 GRT. Hai quả ngư lôi G7a đã gặp trục trặc, nên chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước để tấn công bằng hải pháo. Nó phóng thêm một quả ngư lôi vào mục tiêu nhưng lại bị trượt, nên tiếp tục bắn phá bằng hải pháo. Cuối cùng sau 149 phát đạn pháo, Uskmouth bốc cháy và chìm dần.[10]
Trên đường quay trở về căn cứ, ở vị trí về phía Tây Bắc Scotland vào sáng ngày 8 tháng 12, U-43 bị một máy bay không rõ định danh tấn công, và bị hư hại đáng kể. [2] Nó về đến cảng Wilhelmshaven sáu ngày sau đó, 14 tháng 12.[5]
U-43 lại xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 13 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ mười bốn, và tiếp tục hoạt động tại khu vực Trung tâm Đại Tây Dương.[11] Trên đường đi trong vịnh Biscay vào chiều tối ngày 19 tháng 7, nó cùng với tàu ngầm U-403 bị một máy bay tuần tra Liberator Mk.V thuộc Liên đội 86 Không quân Hoàng gia Anh tấn công. U-403 đã lập tức lặn khẩn cấp để ẩn nấp trong khi U-43 chống trả bằng hỏa lực phòng không trước khi lặn. Chiếc Liberator bị hư hại nhẹ và một thành viên đội bay bị thương, nhưng nó cũng thả hai quả ngư lôi tấn công. Cả hai chiếc U-boat đều đi thoát mà không bị hư hại.[2]
Đến ngày 30 tháng 7, U-43 lại bị tấn công, lần này là từ một máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger xuất phát từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ USS Santee. Chiếc máy bay đã thả một quả ngư lôi dò âm Mark 24 FIDO đánh chìm chiếc U-boat ở vị trí về phía Tây Nam quần đảo Azores, tại tọa độ 34°57′B 35°11′T / 34,95°B 35,183°T.[12][2] Toàn bộ 55 thành viên thủy thủ đoàn của U-43 đều đã tử trận.[2]
U-43 từng tham gia mười bầy sói:
U-43 đã đánh chìm 21 tàu buôn tổng tải trọng 117.036 GRT, gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn tải trọng 9.131 GRT và gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng 10.350 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[13] |
---|---|---|---|---|
16 tháng 11, 1939 | Arlington Court | United Kingdom | 4.915 | Bị đánh chìm |
22 tháng 11, 1939 | Arijon | France | 4.374 | Bị đánh chìm |
25 tháng 11, 1939 | Uskmouth | United Kingdom | 2.483 | Bị đánh chìm |
21 tháng 6, 1940 | Yarraville | United Kingdom | 8.627 | Bị đánh chìm |
30 tháng 6, 1940 | Avelona Star | United Kingdom | 13.376 | Bị đánh chìm |
9 tháng 7, 1940 | Aylesbury | United Kingdom | 3.944 | Bị đánh chìm |
17 tháng 7, 1940 | Fellside | United Kingdom | 3.509 | Bị đánh chìm |
25 tháng 9, 1940 | Sulairia | United Kingdom | 5.802 | Bị đánh chìm |
2 tháng 12, 1940 | Pacific President | United Kingdom | 7.113 | Bị đánh chìm |
2 tháng 12, 1940 | Victor Ross | United Kingdom | 12.247 | Bị đánh chìm |
6 tháng 12, 1940 | Skrim | Norway | 1.902 | Bị đánh chìm |
13 tháng 12, 1940 | Orari | United Kingdom | 10.350 | Bị hư hại |
15 tháng 5, 1941 | Notre Dame du Châtelet | France | 488 | Bị đánh chìm |
6 tháng 6, 1941 | Yselhaven | Netherlands | 4.802 | Bị đánh chìm |
17 tháng 6, 1941 | Cathrine | United Kingdom | 2.727 | Bị đánh chìm |
29 tháng 11, 1941 | Thornliebank | United Kingdom | 5.569 | Bị đánh chìm |
30 tháng 11, 1941 | Ashby | United Kingdom | 4.868 | Bị đánh chìm |
2 tháng 12, 1941 | Astral | United States | 7.542 | Bị đánh chìm |
12 tháng 1, 1942 | Yngaren | Sweden | 5.246 | Bị đánh chìm |
14 tháng 1, 1942 | Chepo | Panama | 5.707 | Bị đánh chìm |
14 tháng 1, 1942 | Empire Surf | United Kingdom | 6.641 | Bị đánh chìm |
18 tháng 11, 1942 | Brilliant | United States | 9.131 | Tổn thất toàn bộ |
3 tháng 3, 1943 | Doggerbank | Nazi Germany | 5.154 | Bị đánh chìm |