U-38 (tàu ngầm Đức) (1938)

Tàu ngầm U-38 cùng với thủy thủ đoàn
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-38
Đặt hàng 29 tháng 7, 1936
Xưởng đóng tàu DeSchiMAG AG Weser, Bremen
Số hiệu xưởng đóng tàu 949
Đặt lườn 15 tháng 4, 1937
Hạ thủy 9 tháng 8, 1938
Nhập biên chế 24 tháng 10, 1938
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type IXA
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 76,60 m (251 ft 4 in) (chung) [2]
  • 58,75 m (192 ft 9 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,51 m (21 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,40 m (14 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,40 m (30 ft 10 in) [2]
Mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 shp) (diesel) [2]
  • 1.000 PS (740 kW; 990 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.500 hải lý (19.400 km; 12.100 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 65–78 hải lý (120–144 km; 75–90 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm 230 m (750 ft) [3]
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 44 thủy thủ
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 20 675
Chỉ huy:
  • Đại úy Heinrich Liebe
  • 24 tháng 10, 1938 – 22 tháng 7, 1941
  • Thiếu tá Heinrich Schuch
  • 15 tháng 7, 1941 – 6 tháng 1, 1942
  • Trung úy Ludo Kregelin
  • 1943
  • Trung úy Helmut Laubert
  • 5 tháng 1 – 22 tháng 8, 1943
  • Trung úy Paul Sander
  • 23 tháng 8 – 14 tháng 12, 1943
  • Trung úy Goske von Möllendorff
  • 16 tháng 12 – tháng 12, 1943
  • Trung úy Herbert Kühn
  • tháng 1 – 14 tháng 4, 1944
  • Thiếu tá Georg Peters
  • 15 tháng 4, 1944 – 5 tháng 5, 1945
Chiến dịch:
  • 11 chuyến tuần tra:
  • 1: 19 tháng 8 – 18 tháng 9, 1939
  • 2: 14 tháng 11 – 16 tháng 12, 1939
  • 3: 26 tháng 2 – 5 tháng 4, 1940
  • 4: 8 – 27 tháng 4, 1940
  • 5: 6 tháng 6 – 2 tháng 7, 1940
  • 6: 1 tháng 8 – 3 tháng 9, 1940
  • 7: 25 tháng 9 – 24 tháng 10, 1940
  • 8: 18 tháng 12, 1940 – 22 tháng 1, 1941
  • 9: 9 tháng 4 – 29 tháng 6, 1941
  • 10: 6 tháng 8 – 14 tháng 9, 1941
  • 11: 15 tháng 10 – 29 tháng 11, 1941
Chiến thắng:
  • 35 tàu buôn bị đánh chìm
    (188.967 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (3.670 GRT)

U-38 là một tàu ngầm tuần dương Lớp Type IX thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực hiện được mười một chuyến tuần tra, đánh chìm tổng cộng 35 tàu buôn với tổng tải trọng 188.967 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng 3.670 GRT. Chiếc tàu ngầm được xếp thứ mười trong số những tàu ngầm U-boat thành công nhất trong Thế Chiến II.[5] U-38 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện trong khu vực biển Baltic từ cuối năm 1941; và khi Thế Chiến II bước vào giai đoạn kết thúc, trong khuôn khổ Chiến dịch Regenbogen, nó bị đánh đắm tại Wesermünde vào ngày 5 tháng 5, 1945 để tránh bị lọt vào tay lực lượng Đồng Minh. Xác tàu đắm được trục vớt và tháo dỡ vào năm 1948.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của tàu ngầm Type IX là phiên bản cải biến từ tàu ngầm Type IA.[6] Chúng có trọng lượng choán nước 1.032 t (1.016 tấn Anh) khi nổi và 1.153 t (1.135 tấn Anh) khi lặn).[3] Con tàu có chiều dài chung 76,50 m (251 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 58,75 m (192 ft 9 in), mạn tàu rộng 6,51 m (21 ft 4 in), chiều cao 9,40 m (30 ft 10 in) và mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in).[3]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,92 m (6,3 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 18,2 kn (33,7 km/h), và tầm hoạt động tối đa 10.500 nmi (19.400 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[3] Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất 1.000 PS (740 kW; 990 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,7 kn (14,3 km/h), và tầm hoạt động 65–78 nmi (120–144 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[3] Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[3]

Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi 53,3 cm (21 in). Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo 10,5 cm (4,1 in) SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không 3,7 cm (1,5 in) SK C/30 và hai pháo phòng không 2 cm (0,79 in) C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.[3]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-38 được đặt hàng vào ngày 29 tháng 7, 1936, rõ ràng là một vi phạm những điều khoản của Hiệp ước Versailles,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser của hãng DeSchiMAGBremen vào ngày 15 tháng 4, 1937.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 9 tháng 8, 1938,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 24 tháng 10, 1938[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Heinrich Liebe.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-38 xuất phát từ Wilhelmshaven vào ngày 19 tháng 8, 1939 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương dọc theo phía Tây quần đảo Anh cho đến ngoài khơi Lisbon, Bồ Đào Nha. Nó quay trở về cảng Wilhelmshaven vào ngày 18 tháng 9 sau chuyến tuần tra kéo dài bốn tuần và đánh chìm được hai tàu buôn Anh.[7] Vào ngày 5 tháng 9, U-38 chặn bắt chiếc tàu buôn Pháp Pluvoise để khám xét giấy tờ, rồi phóng thích chiếc tàu buôn. Tuy nhiên Pluvoise sau đó lại dùng vô tuyến cảnh báo các tàu khác về sự hiện diện của tàu ngầm U-boat. Sự việc này đã khiến Đại úy Liebe hạm trưởng bị khiển trách, và các tàu U-boat khác được cảnh báo tuân thủ chặt chẽ quy tắc chiến tranh tàu ngầm, cũng như tránh đụng độ tàu buôn Pháp.[8]

Sang ngày hôm sau 6 tháng 9, ở vị trí 70 nmi (130 km) về phía Tây Nam Capo da Roca, Bồ Đào Nha, U-38 đã nổ súng cảnh cáo để buộc chiếc tàu buôn Anh Manaar 7.242 GRT dừng lại, nhưng mục tiêu nổ súng chống trả, buộc U-38 phải lặn xuống và đánh chìm Manaar bằng ngư lôi tại tọa độ 38°28′B 10°50′T / 38,467°B 10,833°T / 38.467; -10.833.[9] Viện dẫn sự kiện Manaar đã nổ súng nhắm vào U-38, Đại úy Liebe hạm trưởng đã không dừng lại cứu giúp những người sống sót. Cho dù có quan điểm cho rằng các tàu ngầm dưới quyền không cần tuân thủ quy tắc giao chiến khi đối đầu một tàu buôn vũ trang, Đô đốc Karl Dönitz tư lệnh lực lượng tàu ngầm Hải quân Đức, tiếp tục lưu ý các tàu U-boat nên cẩn thận trong những tình huống tương tự.[8]

Vào ngày 11 tháng 9, U-38 đã nổ súng cảnh cáo để chặn bắt tàu chở dầu Anh Inverliffey 9.456 GRT,[10] và sau đó phóng ngư lôi đánh chìm con tàu đang treo cờ Ireland trung lập này, viện lý do Inverliffey đang vận chuyển lậu xăng đến Anh. Thực ra Inverliffey đã chuyển quốc gia đăng bạ từ Ireland sang Anh hai ngày trước khi bị đánh chìm tại tọa độ 48°14′B 11°48′T / 48,233°B 11,8°T / 48.233; -11.800.[11][12] Dù sao U-38 cũng đã trợ giúp cho thủy thủ đoàn Inverliffey đã bỏ tàu được an toàn.

1942 - 1945

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau chuyến tuần tra cuối cùng, từ tháng 12, 1941, U-38 được điều sang Chi hạm đội U-boat 24 để phục vụ trong vai trò huấn luyện, và sau này hoạt động như một tàu ngầm thử nghiệm.[1] Con tàu lần lượt được điều sang Chi hạm đội U-boat 21 từ ngày 1 tháng 4, 1942; Chi hạm đội U-boat 4 từ ngày 1 tháng 12, 1943; và cuối cùng sang Chi hạm đội U-boat 5 từ ngày 1 tháng 3, 1945.[1]

Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc, theo dự định của Chiến dịch Regenbogen, U-38 bị thủy thủ đoàn đánh đắm về phía Tây Wesermünde (nay là Bremerhaven) Flensburg, tại tọa độ 53°34′B 8°32′Đ / 53,567°B 8,533°Đ / 53.567; 8.533, vào ngày 5 tháng 5, 1945, để tránh bị lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.[1]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-38 từng tham gia năm bầy sói:

  • Prien (12–17 tháng 6, 1940)
  • Grönland (10–27 tháng 8, 1941)
  • Markgraf (27 tháng 8 – 3 tháng 9, 1941)
  • Schlagetot (20 tháng 10 – 1 tháng 11, 1941)
  • Raubritter (1–11 tháng 11, 1941)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-38 đã đánh chìm được 35 tàu buôn tổng tải trọng 188.967 GRT, đồng thời gây hư hại cho mộ tàu buôn tải trọng 3.670 GRT. U-38 được xếp thứ mười trong số những tàu ngầm U-boat thành công nhất trong Thế Chiến II.[5]

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[13]
6 tháng 9, 1939 Manaar  United Kingdom 7.242 Bị đánh chìm
11 tháng 9, 1939 Inverliffey[Ghi chú 2][12] Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc IrelandUK/ Ireland 9.456 Bị đánh chìm
7 tháng 12, 1939 Thomas Walton  United Kingdom 4.460 Bị đánh chìm
11 tháng 12, 1939 Garoufalia  Greece 4.708 Bị đánh chìm
13 tháng 12, 1939 Deptford  United Kingdom 4.101 Bị đánh chìm
9 tháng 3, 1940 Leukos  Ireland 216 Bị đánh chìm
17 tháng 3, 1940 Argentina  Denmark 5.375 Bị đánh chìm
21 tháng 3, 1940 Algier  Denmark 1.654 Bị đánh chìm
21 tháng 3, 1940 Christiansborg  Denmark 3.270 Bị đánh chìm
26 tháng 3, 1940 Cometa  Norway 3.794 Bị đánh chìm
2 tháng 4, 1940 Signe  Finland 1.540 Bị đánh chìm
14 tháng 6, 1940 Mount Myrto  Greece 5.403 Bị đánh chìm
15 tháng 6, 1940 Erik Boye  Canada 2.238 Bị đánh chìm
15 tháng 6, 1940 Italia  Norway 9.973 Bị đánh chìm
20 tháng 6, 1940 Tilia Gorthon  Sweden 1.776 Bị đánh chìm
21 tháng 6, 1940 Luxembourg  Belgium 5.809 Bị đánh chìm
22 tháng 6, 1940 Neion  Greece 5.154 Bị đánh chìm
7 tháng 8, 1940 Mohamed Ali El-Kebir  United Kingdom 7.527 Bị đánh chìm
11 tháng 8, 1940 Llanfair  United Kingdom 4.966 Bị đánh chìm
31 tháng 8, 1940 Har Zion Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Cyprus 2.508 Bị đánh chìm
1 tháng 10, 1940 Highland Patriot  United Kingdom 14.172 Bị đánh chìm
17 tháng 10, 1940 Aenos  Greece 3.554 Bị đánh chìm
18 tháng 10, 1940 Carsbreck  United Kingdom 3.670 Bị hư hại
19 tháng 10, 1940 Bilderdijk  Netherlands 6.856 Bị đánh chìm
19 tháng 10, 1940 Matheran  United Kingdom 7.653 Bị đánh chìm
27 tháng 12, 1940 Waiotira  United Kingdom 12.823 Bị đánh chìm
31 tháng 12, 1940 Valparaíso  Sweden 3.760 Bị đánh chìm
4 tháng 5, 1941 Japan  Sweden 5.230 Bị đánh chìm
5 tháng 5, 1941 Queen Maud  United Kingdom 4.976 Bị đánh chìm
23 tháng 5, 1941 Berhala  Netherlands 6.622 Bị đánh chìm
24 tháng 5, 1941 Vulcain  United Kingdom 4.362 Bị đánh chìm
29 tháng 5, 1941 Tabaristan  United Kingdom 6.251 Bị đánh chìm
30 tháng 5, 1941 Empire Protector  United Kingdom 6.181 Bị đánh chìm
31 tháng 5, 1941 Rinda  Norway 6.029 Bị đánh chìm
8 tháng 6, 1941 Kingston Hill  United Kingdom 7.628 Bị đánh chìm
18 tháng 8, 1941 Longtaker  Panama 1.700 Bị đánh chìm

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
  2. ^ Inverliffey đã thay đổi quốc gia đăng bạ từ Ireland sang Anh hai ngày trước đó, nhưng vẫn tiếp tục treo cờ Ireland vào ngày nó bị đánh chìm.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type IXA U-boat U-38”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Helgason, Guðmundur. “Type IX”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g Gröner, Jung & Maass (1991), tr. 68.
  4. ^ Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-38”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  5. ^ a b Helgason, Guðmundur. “The Most Successful U-boats”. uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  6. ^ Williamson (2005), tr. 40.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-38 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  8. ^ a b Blair (1996), tr. 82.
  9. ^ Helgason, Guðmundur. “Manaar - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  10. ^ “Dáil Éireann – Volume 77”. Sinking of Ships. Parliamentary Debates. 27 tháng 9 năm 1939. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2009.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Inverliffey - British Motor tanker”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  12. ^ a b Visser, Auke. “International Esso Tankers”. Early War Incident. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2009.
  13. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-37”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. London: Weidenfeld & Nicolson. ISBN 0-297-84076-2.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Hull, Mark R. (2003). Irish Secrets - German Espionage in Wartime Ireland 1939-1945. Irish Academic Press. ISBN 978-07165-2807-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Philbin III, Tobias R. (1994). The Lure of Neptune: German-Soviet Naval Collaboration and Ambitions, 1919 – 1941. University of South Carolina Press. ISBN 0-87249-992-8.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
  • Williamson, Gordon (2005). Wolf Pack: The Story of the U-boat in World War II. Osprey. ISBN 1841768723.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type IXA boat U-38”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 38”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2024.


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Viết cho những nuối tiếc của Nanami - Jujutsu Kaisen
Viết cho những nuối tiếc của Nanami - Jujutsu Kaisen
Nanami là dạng người sống luôn đặt trách nhiệm rất lớn lên chính bản thân mình, nên cái c.hết ở chiến trường ắt hẳn làm anh còn nhiều cảm xúc dang dở
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Trái ngược với Tử quỷ tộc [Goblin] (Quỷ nhỏ), đây là chủng tộc mạnh mẽ nhất trong Đại sâm lâm Jura
Review Neuromancer - cột mốc kinh điển của Cyberpunk
Review Neuromancer - cột mốc kinh điển của Cyberpunk
Neuromancer là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng hồi năm 1984 của William Gibson
Review game Firewatch - Chuyện của những người gác lửa rừng
Review game Firewatch - Chuyện của những người gác lửa rừng
Firewatch là câu chuyện về những con người chạy trốn khỏi cuộc đời mình, câu chuyện của những người gác lửa rừng.