Vương (chữ Hán: 王; tiếng Anh: King hoặc Royal Prince) hay Chúa là xưng vị hay tước vị của chế độ phong kiến Đông Á, đứng đầu một Vương quốc, Thân vương quốc hay dành cho hoàng thân nam giới của Hoàng tộc. Từ Vương Công là cách gọi khác của Vương tước.
Tước vị này sử dụng cho chế độ tước vị của nam giới tại các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Tại Châu Âu, cả King và Prince đều tương đương với Vương ở chuyển nghĩa ngôn ngữ Đông Á, dù thực chất địa vị của hai tước hiệu này về cơ bản là khác nhau hoàn toàn.
Tùy giai đoạn hoặc quốc gia, tước Vương có thể có nhiều ý nghĩa, nhưng nhìn chung ở Đông Á thì thông dụng nhất là:
Tước hiệu Vương thường được dùng chuyển ngữ tương đương cho nhiều tước hiệu khác nhau trong các ngôn ngữ châu Âu. Khi chuyển ngữ tương đương cho các tước hiệu trong tiếng Anh, thuật ngữ "Quốc vương" dùng chuyển ngữ cho tước hiệu King, "Thân vương" cho Prince, và ở mức độ hiếm hơn, "Quận vương" cho Count (tương đương Bá tước). Tuy nhiên, cách chuyển ngữ này không phản ánh chính xác hoàn toàn mối tương quan giữa các tước hiệu này. Trong hầu hết ngôn ngữ châu Âu, các tước hiệu tương đương King và Prince trong tiếng Anh đều có thể chỉ đến những vị quân chủ cai trị lãnh thổ độc lập với nhau. Ngoài ra, cũng tồn tại một ngữ cảnh khác khi thuật ngữ Prince còn có thể dùng để chỉ các hậu duệ nam trực hệ (con và cháu nội) của các vị quân chủ mang tước hiệu Hoàng đế (Emperor), Quốc vương (King) hoặc Đại công tước (Grand duke) và Công tước (Duke). Điều này có thể gây nhầm lẫn trong việc chuyển ngữ thuật ngữ Prince của một số tài liệu Việt ngữ, khi không phân biệt được ngữ cảnh sự khác biệt giữa tước hiệu (Thân vương) với danh vị (Hoàng tử, Vương tử, Công tử). Ví dụ như "Prince Dorgon" được chuyển ngữ từ "Hoàng tử Đa Nhĩ Cổn", nhưng nếu "Dorgon, Prince Rui" thì được chuyển ngữ từ "Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn".
Ở một mặt ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, Vương cũng có thể ám chỉ Basileus của nhà nước Hy Lạp cổ, Malik của ngữ tộc Semit, Pharaoh của Ai Cập cổ đại hay Padishah của Ba Tư với tư cách là quân chủ độc lập. Ngoài ra với tư cách là thành viên hoàng gia/vương thất thì có Sheikh và Emir của tiếng Ả Rập, Şehzade của Đế quốc Ottoman, Shahzadeh của Iran cùng Mirza của nhà nước Ấn Độ Hồi giáo.
Vương là xưng vị cao nhất của các vị Thiên tử Trung Hoa kể từ đời nhà Thương cho đến trước thời Tần Thủy Hoàng.
Trước đời nhà Thương, các vị thiên tử Trung Hoa được gọi là Hoàng (皇) hoặc Đế (帝). Khi Thiên tử còn sống thì gọi là Bá (伯), sau đổi sang dùng Hậu (后), khi qua đời thì gọi là Đế (帝), từ giữa nhà Thương thì đặt tôn xưng Vương (王). Các Thiên tử nhà Chu đều xưng là Vương, kể cả khi còn sống hay đã qua đời, do đó trong thời kỳ ấy không có ["tước Vương"], vì đó ám chỉ Thiên tử rồi.
Nhưng khi nhà Chu suy yếu ở thời Đông Chu, các chư hầu vốn chỉ cao nhất là Công tước, nay cũng tự thấy vị thế của mình không đáng phải thần phục nhà Chu nữa mà bắt đầu xưng Vương, sớm nhất trong số đó là Sở Vũ vương. Điều này dựa trên việc khi này nước Sở đã làm chủ phương Nam, quốc lực cường thịnh, có thể thấy mình ngang với Thiên tử mà xưng làm Vương, nhưng vị hiệu [Vương] này của các Vua Sở cũng chỉ là tự xưng chứ không phải thụ phong, và triều đình nhà Chu cùng những thế lực chống phá nước Sở không công nhận việc tự xưng này. Khi Đông Chu bắt đầu đi vào giai đoạn giữa, không chỉ Sở mà đến nước Tần cũng xưng Vương, đến thời Chiến Quốc thì cả 7 nước chư hầu lớn đều xưng Vương.
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, do ông thấy tước Vương đã không còn đủ tôn quý dành cho Thiên tử, nên quyết định lập tước vị Hoàng đế, thì Vương trở thành danh hiệu cao thứ hai, dùng để phân phong cho các Hoàng tử được ban đất phong, đây là mô phỏng theo chế độ chư hầu của nhà Chu.
Thời Tào Ngụy và Tây Tấn, triều đình Trung Hoa bắt đầu hình thành hai cấp tước Vương; lớn nhất là phong hiệu một chữ ["Nhất tự vương"; 一字王], tức lấy tiểu quốc mà cấp làm đất phong, cũng gọi Thân vương (親王). Loại thứ hai là phong hiệu hai chữ của quận, huyện làm đất phong, tức ["Nhị tự Vương"; 二字王], cũng gọi Quận vương (郡王). Tước Quận vương khi ấy dùng cho con cháu kế tự của Thân vương, hoặc cũng dùng để phong cho công thần. Mô thức này kéo dài đến hết nhà Minh. Sang thời nhà Thanh, các tên hiệu của tước Vương đa phần chỉ còn mà mỹ hiệu mà không phải địa danh, tương tự Công chúa.
Các triều đại sau dùng tước Vương trong rất nhiều trường hợp, tỉ mỉ như sau:
Đặc biệt, trong lịch sử Trung Hoa có một tước vị cao hơn Vương nhưng thấp hơn Hoàng Đế. Tước vị này chỉ phong cho con cháu của Khổng Tử, gọi là Diễn Thánh Công (衍聖公). Vào thời Thanh, địa vị của Diễn Thánh Công lên đến tột đỉnh. Xa giá của Diễn Thánh Công có thể đi thẳng qua cổng chính Ngọ Môn, nơi chỉ dành riêng cho Hoàng Đế.
Trong lịch sử Việt Nam, Vương là xưng hiệu của Thiên tử Việt Nam, sau đó khi thế nước mạnh lên, các Thiên tử xưng Hoàng đế để tỏ ra ngang hàng với Trung Hoa thì Vương không còn là tước cao nhất.
Các quân chủ xưng Vương:
Trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, để tránh xung đột không cần thiết vì các triều đại Trung Quốc quan niệm thế giới chỉ có một Hoàng đế (xem bài Thiên tử và Thiên mệnh); các Hoàng đế Việt Nam thường tiếp nhận và sử dụng danh hiệu [An Nam quốc vương; 安南國王] do triều đình Trung Quốc ban phong để quan hệ ngoại giao với họ.
Khi xưng là Hoàng đế, thì "Vương" là một tước hiệu cho thành viên hoàng thất. Các trường hợp phong vương áp dụng trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự như trong lịch sử Trung Quốc:
Trong đa số trường hợp khác, phong Vương cho người ngoài hoàng tộc là việc làm bị quyền thần bắt buộc của Hoàng đế. Đòi phong Vương để chuẩn bị cướp ngôi như Hồ Quý Ly; hoặc ngại tránh mang tiếng cướp ngôi thì làm tước thế tập nhiều đời như các chúa Trịnh. Việc xưng Vương của các chúa Nguyễn vốn không phải là được phong mà thực chất là lặp lại quá trình thăng tiến dần đến đích của một vùng lãnh thổ trở thành quốc gia độc lập tại Nam Hà, dù trên danh nghĩa người đứng đầu nó vẫn là thần tử nhà Lê.
Theo giai thoại dân gian Việt Nam, vào thời Nguyễn, đã từng có một câu đối được đưa ra có liên quan đến chữ Vương, câu đối do một người Pháp đưa ra: 'Vương là vua, rút ruột vua phân chia ba đoạn". Giải nghĩa là: chữ Vương (viết bằng chữ Hán: 王) nếu bỏ gạch ở chính giữa sẽ thành chữ Tam (三) và có nghĩa là ba (3). Ý của người ra vế đối là có ý chê vua không có tài, để cho đất nước bị chia cắt làm ba miền. Và câu đối này đã được một nho sinh Việt Nam đối lại khá chỉnh: "Tây là tây, chặt đầu tây phanh thây bốn mảnh", trong đó Tây viết bằng chữ Hán là 西, bỏ đầu thì thành 四, tức là tứ (4). [cần dẫn nguồn] Còn có một câu đối Việt Nam khác nữa là "Dầu vương cả đế". [cần dẫn nguồn]
Tước hiệu [Vương] ở tiếng Anh có thể dịch thành [King], tương đương "Quốc vương" lẫn [Prince], tương đương với "Thân vương", cả hai đều là tước hiệu của một vị Vua nói chung của thể chế Châu Âu, trong đó [Prince] lại thiên về những người con của Vua, tức kiểu gọi Hoàng tử, Vương tử nếu nói theo ngôn ngữ Đông Á.
Danh vị [King] biểu thị quân chủ của một Vương quốc, và trái với Prince, thì King luôn luôn biểu thị một quân chủ nhất định và không bao giờ biểu thị vị thế "con của Vua" như Prince thường biểu thị. Danh xưng này bắt nguồn từ [cyning] của tiếng Anh cổ thời Anglo-Saxon, được dịch lại và chuyển ngữ để tương đương với Rex của tiếng Latinh. Sau sự tan rã của Đế chế Byzantine, Châu Âu rơi vào sự hình thành [Những chính quyền Vương quốc man di; Barbarian kingdoms], rồi hình thành nên Đế chế Carolingian của người Frank cùng Vương quốc Anh của người Anglo-Saxon. Sự tan rã của Carolingian tiếp tục dẫn đến những nền quân chủ phong kiến khi chia chác lãnh thổ cố định bởi các chư hầu hoặc thế lực địa phương, hình thành nên Vương quốc Pháp ở Trung Âu, một trong những Kingdom hùng mạnh nhất lịch sử. Và đến thời kỳ cận đại, Châu Âu đã hình thành những [Kingdom] có ảnh hưởng toàn lịch sử, ngoài Anh và Pháp còn có Bồ Đào Nha, Castilla và Aragon của bán đảo Iberia; Sicily, Sardinia và Serbia ở Nam Châu Âu, và Hungary, Ba Lan, Bohemia, Thụy Điển, Đan Mạch, ... ở phía Đông và Bắc Âu.
Sự hình thành nhà nước Châu Âu thường đi theo là các chính phủ như Nghị viện, dẫn đến ở một vài trường hợp thì một vị King có thể cai quản nhiều hơn một Vương quốc. Điển hình là nhà Stuart trước khi hợp nhất năm 1707, đã quản cả 3 vương quốc là Anh, Scotland cùng Ireland. Và tuy King cũng thường xem là "một bậc thấp hơn" nếu so với [Emperor], tương tự Chư hầu Vương so với Hoàng đế ở Đông Á, song sự tự chủ và quyền hạn của một King vẫn rất lớn mạnh và đủ khả năng đối chọi với một Emperor, điển hình là việc Vương quốc Pháp luôn cạnh tranh với Thánh chế La Mã.
Còn danh xưng [Prince] là một từ được lấy từ tiếng Latinh là [princeps], có nghĩa là "bậc đứng đầu tất cả, chúa tể và người cai trị"[4]. Từ này được dùng để chỉ các lãnh đạo của Viện nguyên lão La Mã, tức Princeps senatus. Tại các nước nói tiếng Anh, sự nổi tiếng nhất về tước hiệu này chính là ám chỉ Thân vương xứ Wales, tước vị dành cho một Trữ quân theo truyền thống của nước Anh, vị Prince này cai trị Thân vương quốc Wales, một quốc gia nằm ở rìa Tây của Anh, nói tiếng Wales và nằm trong quyền sở hữu lãnh địa của Vương quốc Anh.
Sau đó, Prince trở thành một loại tước hiệu thường là cao nhất trong hệ thống tước phong của một Vương quốc, hoặc là một người thủ lĩnh của một Thân vương quốc. Từ thời kỳ Đế quốc Byzantine, các Prince sở hữu những lãnh địa tự chủ riêng nhưng nằm trong một khối Đế quốc Hoàng quyền thống nhất (giống tình trạng Chư hầu Vương của các triều đại Đông Á), đến trước thế kỉ 13 thì ngay cả một lãnh chúa cũng có thể tự xưng Prince để biểu thị quyền uy chỉ dưới Hoàng đế (Emperor) và Quốc vương (King). Sau thời Trung Cổ đến trước Cách mạng công nghiệp diễn ra, khắp Châu Âu có gần 200 xứ sở mà Prince trị vì với tư cách là một vị vua, nằm rải rác chủ yếu ở Ý và Đức.
Suốt thời kỳ này, Prince gần như là một từ nghe hoành tráng hơn monarch để chỉ vua chúa nói chung, mà không kể tước hiệu cụ thể của vị vua chúa ấy là gì, điều này có thể chứng minh qua cuốn [Il Principe] của Niccolò Machiavelli[5].
Trước năm 1714, các Vương tử và Vương nữ - con trai và con gái của quân chủ Anh không có bất kỳ danh xưng cụ thể nào trừ tước hiệu mà mình được tấn phong, và Prince duy nhất vào thời điểm ấy được biết đến là Thân vương xứ Wales. Cách dùng Prince và Princess trong thời kỳ này chỉ là một cách xác định ví von biểu thị địa vị của Vương tử hoặc Vương nữ ấy, đó vẫn không phải là tước xưng chính thức. Sau khi Quốc vương George I của nhà Hanover lên ngôi, vương thất Anh bắt đầu dùng "Prince" để ám chỉ các con trai cùng cháu trai của quân chủ đang trị vì, do vậy có thể thấy từ thời kỳ này trở đi, cho dù là tước phong quý tộc Công tước hay Hầu tước, Bá tước thì các Vương tử hoặc Vương tôn đều có tước xưng Prince ngay trước tên thánh của mình. Kèm theo đó, họ có được dùng kính ngữ His Royal Highness (gọi tắt là HRH).
Dưới sự ảnh hưởng của tiếng Anh cùng sự lan tỏa của Vương thất Anh dưới thời Nữ vương Victoria và Quốc vương Christian IX, cách dùng Prince ám chỉ Vương tử, Hoàng tử và Princess ám chỉ Vương nữ, Hoàng nữ ngày càng phổ biến. Về ý nghĩa thực sự, cũng như Infante của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tước xưng Prince có sự phức tạp đáng kể, do vậy cách tốt nhất vẫn là xem xét vai vế mà dịch thuật, hoặc là giữ nguyên như tước hiệu Infante vậy. Ví dụ Prince Philip, Công tước xứ Edinburgh - chồng của Nữ vương Elizabeth II, ông được gọi là [HRH The Prince Philip, Duke of Edinburgh],[6] nhưng không thể dịch thành "Vương tử", mà thường là "Vương phu" hoặc phổ biến là "Vương tế/ Hoàng tế". Trong khi đó, Prince George xứ Wales - cháu Đích tằng tôn của Nữ vương, hiện là cháu nội của Quốc vương Charles III được gọi là [HRH Prince George of Wales], cũng không thể dịch thành "Hoàng tử" hay "Vương tử" theo nghĩa thông thường do George không phải là con của quân chủ, mà là cháu nội của quân chủ (tức "Vương tôn"). Vì vậy, trong các tài liệu Việt ngữ thường dùng chung danh xưng Hoàng thân cho các trường hợp tước xưng là Prince và danh xưng Thân vương cho các trường hợp tước vị là Prince.