Whatever People Say I Am, That's What I'm Not

Whatever People Say I Am, That's What I'm Not
Album phòng thu của Arctic Monkeys
Phát hành23 tháng 1 năm 2006
Thu âmTháng 6–Tháng 9 2005
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng40:56
Hãng đĩaDomino
Sản xuất
Thứ tự album của Arctic Monkeys
Whatever People Say I Am, That's What I'm Not
(2006)
Favourite Worst Nightmare
(2007)
Đĩa đơn từ Whatever People Say I Am, That's What I'm Not
  1. "I Bet You Look Good on the Dancefloor"
    Phát hành: 17 tháng 10 năm 2005
  2. "When the Sun Goes Down"
    Phát hành: 16 tháng 1 năm 2006
  3. "Fake Tales of San Francisco"
    Phát hành: tháng 8 năm 2006

Whatever People Say I Am, That's What I'm Not là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh Arctic Monkeys, do hãng Domino Recording Company phát hành vào ngày 23 tháng 1 năm 2006. Album đã vượt qua album cùng nghệ danh của Elastica để trở thành album đầu tay bán chạy nhất trong lịch sử âm nhạc Anh Quốc, khi tiêu thụ hơn 360.000 bản trong tuần đầu ra mắt[2][3] và vẫn là album đầu tay bán chạy nhất của một ban nhạc.[4][5] Album cũng nhận được nhiều chứng nhận bạch kim tại Anh Quốc. Nhạc phẩm là album duy nhất có sự góp mặt của Andy Nicholson trong vai trò người chơi bass trước khi Nick O'Malley thay thế anh.

Whatever People Say I Am, That's What I'm Not bao gồm tất cả các bài hát từ EP gốc của nhóm mang tên Five Minutes with Arctic Monkeys, cũng như hai đĩa dơn quán quân trên UK Singles Chart là "I Bet You Look Good on the Dancefloor" và "When the Sun Goes Down". Nhạc phẩm thường được coi là một trong những album nhạc rock hay nhất thập niên.[6][7] Album đã giành giải Mercury cho album xuất sắc nhất và đứng thứ 371 trong danh sách 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại của tạp chí Rolling Stone. Năm 2013, tạp chí này xếp nhạc phẩm là album đầu tay vĩ đại thứ 30 mọi thời đại.[3] Vào tháng 10 năm 2013, tạp chí âm nhạc NME liệt album ở vị trí thứ 19 trong cuộc bầu chọn 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại của tạp chí này.[8] Cho đến nay Whatever People Say I Am, That's What I'm Not đã tiêu thụ doanh số 3.390.000 triệu bản trên toàn cầu.

Sáng tác và nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Về mặt âm nhạc, Whatever People Say I Am, That's What I'm Not chịu những ảnh hưởng từ các dòng nhạc indie rock,[9] garage rock revival,[10] post-punk revival[11]punk rock.[12] Nội dung chủ đề phổ biến của album khiến nhạc phẩm được coi là một album khái niệm nói về "cuộc sống của những clubber trẻ ở miền Bắc Anh".[13] Tất cả các ca khúc đều ghi lại những điểu quan sát được của một nhân vật tự sự dùng trong ngữ cảnh này. "I Bet You Look Good on the Dancefloor", "Still Take You Home", "You Probably Couldn't See for the Lights But You Were Staring Straight at Me" và "Dancing Shoes" đều xem xét hành vi của con người trong các vũ trường. Giọng ca chính Alex Turner miêu tả "Dancing Shoes" nói về "con người luôn tìm cách hít một điếu thuốc khi họ bước ra ngoài nhưng họ lại che giấu điều đó".[14] Những bài khác cũng xem xét các khía cạnh khác của thú vui về đêm: "From the Ritz to the Rubble" miêu tả về những kẻ giữ trật tự ở vũ trường, "Red Light Indicates Doors Are Secured" kể về những trải nghiệm và rắc rối điển hình của việc bắt tắc-xi sau một đêm vui chơi; còn "When the Sun Goes Down" lấy cảm hứng từ các cô gái mại dâm trong căn phòng phục vụ của họ ở địa phương, nằm trong quận Neepsend của Sheffield.[15] Những ca khúc khác lại lấy chủ đề về những mối tình lãng mạn như "Mardy Bum", hay tiểu văn hóa trẻ như "Fake Tales of San Francisco" và "A Certain Romance". Trong danh sách tốp 100 bài hát của thập niên bởi tạp chí NME, "A Certain Romance" được miêu tả là "một ca khúc kỳ quặc vô tư, khởi đầu với sự khinh bỉ những thị trấn địa phương, rồi xuất hiện để gỡ bỏ chúng ở cuối bài hát".[16]

Tựa đề và bìa nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Tựa đề Whatever People Say I Am, That's What I'm Not lấy từ một dòng chữ trong cuốn tiểu thuyết Saturday Night and Sunday Morning của nhà văn Alan Sillitoe. Ban nhạc lựa chọn tựa đề sau khi Turner nhận ra những nét tương đồng giữa hai tác phẩm và sự thích hợp của tựa đề này. Anh cho biết "thật tuyệt vời vì cuốn sách mang tên Saturday Night and Sunday Morning và đó là kiểu gọi của album, vì thế có một mối liên hệ ở đó. Đồng thời có nhiều người nói rất nhiều điều về chúng tôi và bạn không có quyền kiểm soát nó".[17] Anh cũng tiết lộ thêm, "những bài hát như 'The View from the Afternoon', 'Dancing Shoes', 'Still Take You Home' and 'From the Ritz to the Rubble' đều có một chút không khí dịp cuối tuần và xuất hiện cùng nhân vật".[18]

Bìa nghệ thuật của album là một tấm ảnh của Chris McClure—một người bạn thân của nhóm kiêm thủ lĩnh The Violet May; anh còn là anh trai của Jon McClure từ ban nhạc Reverend and The Makers—được chụp vào lúc sáng sớm tại quán bar KorovaLiverpool, sau khi ban nhạc chi cho Chris bảy mươi bảng để vui chơi về đêm".[19] Bức ảnh đã dấy lên một số tranh cãi khi Laurence Gruer của NHS Scotland chỉ trích bìa nhạc phẩm vì "củng cố ý tưởng rằng hút thuốc là tốt".[20] Nhà quản lý sản phẩm của Arctic Monkeys phủ nhận cáo buộc trên và thực tế lại gợi ý điều trái ngược: "Bạn có thể thấy từ bức hình thuốc lá là không tốt cho thế giới của anh ta". Các ấn phẩm quảng cáo album của Billboard cũng sử dụng một bức ảnh tương tự như bìa nhạc phẩm nhưng không có hình điếu thuốc.

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi phát hành Whatever People Say I Am, That's What I'm Not, các bài hát gồm "Mardy Bum", "I Bet You Look Good on the Dancefloor", "Fake Tales of San Francisco", "Dancing Shoes", "Still Take You Home", "Riot Van", "When the Sun Goes Down" (còn có tên gọi là "Scummy" hoặc "Scummy Man") và "A Certain Romance" từng được phát hành miễn phí trên internet vào cuối năm 2004 và cùng xuất hiện không chính thức trong một album biên tập Beneath the Boardwalk.

Lịch phát hành gốc của album là ngày 30 tháng 1 năm 2006, nhưng đã bị đẩy sớm lên ngày 23 tháng 1 năm 2006 do "nhu cầu lớn". Mặc dù điều này từng xảy ra với Franz Ferdinand, người ta suy đoán rằng động thái này là một nỗ lực để chống lại những hiệu ứng rò rỉ album trên các trang web chia sẻ tệp tin trực tuyến.[21] Những phiên bản thu âm lại của album từng bị rò rỉ trên internet vào tháng 12 năm 2005.

Vào ngày đầu tiên phát hành, Whatever People Say I Am, That's What I'm Not trở thành album đầu tay bán chạy nhanh nhất trong lịch sử Anh Quốc khi chỉ tiêu thụ dưới 120.000 bản. Đến dịp cuối tuần, nhạc phẩm đã bán 363.735 bản—nhiều hơn cả tổng doanh số của các album còn lại trong tốp 20 và qua đó trở thành album đầu tay bán chạy nhanh nhất trong lịch sử Anh Quốc. Lịch phát hành tại Hoa Kỳ là ngày 21 tháng 2 năm 2006 chứng kiến Whatever People Say I Am, That's What I'm Not trở thành album nhạc indie đầu tay bán chạy nhanh thứ hai trong lịch sử,[22] khi tiêu thụ khoảng 34.000 bản trong tuần ra mắt và đứng ở vị trí thứ 24 trên các bảng xếp hạng album. Nhạc phẩm còn giành vị trí quán quân tại Úc và Ireland. Tính đến tháng 9 năm 2013, doanh số của album dừng ở con số 1.475.982 bản.[23] Vào tháng 2 năm 2014, album năm lần nhận chứng nhận bạch kim với doanh số 1.500.000 bản.

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"I Bet You Look Good on the Dancefloor" là đĩa đơn đầu tiên được phát hành từ album Whatever People Say I Am, That's What I'm Not; bài hát ra mắt ở vị trí quán quân bảng xếp hạng UK Singles Chart vào ngày 29 tháng 10 năm 2005,[24] sau khi hạ bệ ca khúc "Push the Button" của Sugababes, đồng thời giành vị trí quán quân trên UK Indie Chart.[25] Tạp chí Billboard từng bầu chọn "I Bet You Look Good on the Dancefloor" ở vị trí thứ 4 trong danh sách "những bài hát garage ngầu nhất".[26] Ngày 28 tháng 1 năm 2006, đĩa đơn thứ hai từ album, "When the Sun Goes Down" tiếp nối thành công của đĩa đơn đầu tiên để đoạt các vị trí quán quân trên UK Singles Chart [27]UK Indie Chart.[28] Tại Hoa Kỳ đĩa đơn thứ ba "Fake Tales of San Francisco" được phát hành và đạt vị trí thứ 43 trên bảng xếp hạng Canada Rock của Billboard.[29] Ca khúc "Mardy Bum" dù không phát hành dưới dạng đĩa đơn nhưng xuất hiện trên các playlist phát thanh ở khắp Anh Quốc vào giữa năm 2006, và vẫn được bật thường xuyên trên BBC Radio 1 và một số đài phát thanh alternative rock như SiriusXMU của Sirius XM. Bài hát "A Certain Romance" xếp thứ 90 trong tốp 100 bài hát năm 2006 của Pitchfork và được coi là một ca khúc nổi bật.[30] NME cũng liệt "A Certain Romance" ở vị trí 10 trong danh sách 100 bài hát của thập niên của tạp chí này.[31] Vào tháng 10 năm 2011, NME xếp đĩa đơn ở vị trí số 140 trong danh sách "100 bài hát hay nhất trong 15 năm qua".[32]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Có tổng cộng bốn bài hát trong album được phát hành video âm nhạc chính thức trên trang Youtube, trong đó có ba bài hát do Domino Recording Company phát hành. Ba bài hát trên lần lượt là "I Bet You Look Good On The Dancefloor" (19 tháng 2 năm 2010)[33], "Fake Tales Of San Francisco" (14 tháng 8 năm 2006)[34] và "The View From The Afternoon" (24 tháng 2 năm 2010).[35]. Chỉ có video của bài hát "When The Sun Goes Down" là do trang Youtube chính thức của riêng Arctic Monkeys phát hành vào ngày 14 tháng 8 năm 2006.[36]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic82/100[37]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AbsolutePunk89%
Allmusic [38]
A.V. ClubB–[39]
The Guardian[40]
NME10/10[41]
Pitchfork Media7.4/10[42]
PopMatters8/10[43]
Robert ChristgauA−[44]
Rolling Stone[45]
Sputnikmusic4.5/5[46]
Winnipeg Sun[47]

Kể từ khi phát hành, Whatever People Say I Am, That's What I'm Not nhận được đông đảo sự hoan nghênh từ giới phê bình. Nhạc phẩm xuất hiện nhiều lần trong các danh sách cuối năm và được coi là một nhạc phẩm kinh điển thời hiện đại.[48] Nhiều nhà phê bình và nhân vật trong giới truyền thông Anh Quốc còn quảng cáo thổi phồng Arctic Monkeys và sự nổi tiếng nhanh chóng của nhóm bằng cách ca ngợi họ thông qua các phương tiện độc đáo.[15][42][49] Một số người coi Arctic Monkeys là người đã cách mạng hóa con đường mọi người tìm thấy âm nhạc, khi họ xây dựng một lượng fanbase dựa trên một số bản demo do người hâm mộ chia sẻ qua internet.[50]

NME tuyên bố rằng Arctic Monkeys là "Ban nhạc quan trọng nhất thời đại chúng ta", và những mô tả của Alex Turner qua lời bài hát về Sheffield, cuộc sống đêm của thanh thiếu niên nói riêng, đã khiến họ gán cho anh danh hiệu "bật thầy quan sát",[41]USA Today cho rằng "bạn sẽ không nghe đĩa CD nào hay hơn thế này trong nhiều năm dài".[48] MusicOMH viết rằng album có kiểu guitar rock "khiến bạn rơi vào tình yêu với âm nhạc một lần nữa", nhiều nhà phê bình xem "A Certain Romance" là một track nổi bật, tuy nhiên, cũng lưu ý rằng nhiều bài hát trước đó được phát hành trên internet dưới dạng demo đã bị giảm chất lượng và "không hay như trước".[49]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]
Ấn phẩm Danh sách Xếp hạng
NME Album Anh Quốc vĩ đại nhất[51] 5
NME Album của năm[52] 1
Crossbeat Album của năm[53] 1
Time Album của năm[54] 1
Hot Press Album của năm[55] 1
Rolling Stone 100 album hay nhất thập niên 2000[56] 41
Rolling Stone 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại[57] 371
Rolling Stone 100 album đầu tay hay nhất mọi thời đại[3] 30
NME 500 album vĩ đại nhất mọi thời đại[58] 19

Vào năm 2009 album xếp thứ 9 trong cuộc bầu chọn trực tuyến "Album vĩ đại nhất" của MTV.[59] Bên cạnh đó "Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" còn gặt hái một số giải thưởng như Giải Barclaycard Mercury cho album xuất sắc nhất[60], giải thưởng Q cho album xuất sắc nhất[61], giải âm nhạc Meteor cho album quốc tế hay nhất tại Ireland[62]giải Brit 2007 cho album Anh Quốc xuất sắc nhất.[63]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả lời được viết bởi Alex Turner, trừ khi có ghi chú. Tất cả nhạc được soạn bởi Arctic Monkeys.

STTNhan đềThời lượng
1."The View from the Afternoon"3:38
2."I Bet You Look Good on the Dancefloor"2:53
3."Fake Tales of San Francisco"2:57
4."Dancing Shoes"2:21
5."You Probably Couldn't See for the Lights but You Were Staring Straight at Me"2:10
6."Still Take You Home" (Turner, Jamie Cook)2:53
7."Riot Van"2:14
8."Red Light Indicates Doors Are Secured"2:23
9."Mardy Bum"2:55
10."Perhaps Vampires Is a Bit Strong But..."4:28
11."When the Sun Goes Down"3:20
12."From the Ritz to the Rubble"3:13
13."A Certain Romance"5:31

Bảng xếp hạng và chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Clients, Chapel Studios”. Chapel Studios.
  2. ^ “Arctic Monkeys make chart history”. BBC News. 29 tháng 1 năm 2006.
  3. ^ a b c “Bản sao đã lưu trữ”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2017. Truy cập 13 tháng 7 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề=|title= (trợ giúp)
  4. ^ Album Spirit năm 2007 của Leona Lewis trở thành album đơn ca đầu tay bán chạy nhất tính đến thời điểm phát hành vào tháng 11 năm 2007.
  5. ^ “Susan Boyle beats Leona Lewis, Arctic Monkeys to 'biggest first week sales for UK debut album' title”. NME. 29 tháng 11 năm 2009. Truy cập 30 tháng 11 năm 2009.
  6. ^ “Whatever People Say I Am, That's What I'm Not”. AcclaimedMusic. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2016. Truy cập 5 tháng 2 năm 2017.
  7. ^ “Arctic Monkeys, 'Whatever People Say I Am, That's What I'm Not'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2018.
  8. ^ “The 500 Greatest Albums Of All Time: 100-1”. IPC Media. 25 tháng 10 năm 2013. Truy cập 20 tháng 11 năm 2013.
  9. ^ Williams, Megan (10 tháng 1 năm 2017). “All Things Reconsidered: 'Favourite Worst Nightmare' ten years later”. The Michigan Daily. Truy cập 14 tháng 2 năm 2017.
  10. ^ “Coolest Garage Songs”. Billboard. United States: Lynne Segall: 15. 22 tháng 4 năm 2006. Truy cập 19 tháng 7 năm 2016.
  11. ^ “Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not”. Sputnikmusic. 21 tháng 2 năm 2012. Truy cập 14 tháng 2 năm 2017.
  12. ^ “Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not”. NME. 12 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  13. ^ Walters, Barry (21 tháng 2 năm 2006). “Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập 14 tháng 2 năm 2017.
  14. ^ “Arctic Monkeys' debut album in their own words”. NME.
  15. ^ a b Petridis, Alexis (13 tháng 1 năm 2006). “Arctic Monkeys, Whatever People Say I Am, That's What I'm Not”. The Guardian. London. Truy cập 21 tháng 7 năm 2009.
  16. ^ “100 Tracks of the Decade”. NME. 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  17. ^ NME.COM - Arctic Monkeys - A Scummy Man and Mardy Bums: The ultimate Arctic Monkeys Album Guide Lưu trữ 2007-06-18 tại Wayback Machine
  18. ^ “Monkeys explain album”. Yahoo! News. 9 tháng 1 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2018.
  19. ^ Wichelow, Sam (9 tháng 2 năm 2006). “Familiar face?”. BBC News - South Yorkshire.
  20. ^ “Arctic Monkeys defend album cover”. BBC News. 3 tháng 2 năm 2006.
  21. ^ “Arctic Monkeys album rush released”. NME. 5 tháng 1 năm 2006.
  22. ^ “Arctic Monkeys make chart history”. BBC. 29 tháng 1 năm 2006.
  23. ^ “Official Charts Analysis: Arctic Monkeys' AM doubles predecessor's week-one sales”. Official Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập 8 tháng 9 năm 2017.
  24. ^ “I Bet You Look Good on the Dancefloor”. Official Charts Company. Truy cập 14 tháng 4 năm 2018.
  25. ^ “Official Independent Singles Chart Top 50”. Official Charts Company. 23 tháng 10 năm 2005. Truy cập 14 tháng 4 năm 2018.
  26. ^ Lynne Segall (22 tháng 4 năm 2006). "Coolest Garage Songs”. Billboard. Truy cập 9 tháng 11 năm 2018.
  27. ^ “When the Sun Goes Down”. Official Charts Company. Truy cập 14 tháng 4 năm 2018.
  28. ^ “Official Independent Singles Chart Top 50”. Official Charts Company. 22 tháng 1 năm 2006. Truy cập 14 tháng 4 năm 2018.
  29. ^ “Arctic Monkeys Chart History (Canada Rock)”. Billboard. Truy cập 9 tháng 11 năm 2018.
  30. ^ “Pitchfork Feature: The Top 100 Tracks of 2006”. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2018.
  31. ^ “100 Tracks of the Decade”. Nme.Com. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  32. ^ “150 Best Tracks Of The Past 15 Years”. NME. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  33. ^ “Arctic Monkeys - I Bet You Look Good On The Dancefloor (Official Video)”. Domino Recording Co. trên Youtube. 19 tháng 2 năm 2010. Truy cập 9 tháng 11 năm 2018.
  34. ^ “Arctic Monkeys - Fake Tales Of San Francisco - (Official Video)”. Domino Recording Co. trên Youtube. 14 tháng 8 năm 2006. Truy cập 9 tháng 11 năm 2018.
  35. ^ “Arctic Monkeys - The View From The Afternoon - (Official Video)”. Domino Recording Co. trên Youtube. 24 tháng 2 năm 2010. Truy cập 9 tháng 11 năm 2018.
  36. ^ “Arctic Monkeys - When The Sun Goes Down (Official Video)”. Official Arctic Monkeys trên Youtube. 14 tháng 8 năm 2006. Truy cập 9 tháng 11 năm 2018.
  37. ^ “Whatever People Say I Am, That's What I'm Not Reviews, Ratings, Credits, and More at Metacritic”. Metacritic.com. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  38. ^ Erlewine, Stephen. “Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not - Review - Allmusic”. Allmusic. Allmusic. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  39. ^ Murray, Noel. “Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not - Music - Music Review - The A.V. Club”. The A.V. Club. The Onion. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2012.
  40. ^ Petridis, Alexis (ngày 13 tháng 1 năm 2006). Whatever People Say I Am, That's What I'm Not Review”. London: The Guardian. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  41. ^ a b “NME Album Reviews - Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not”. Nme.Com. ngày 12 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  42. ^ a b Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not | Album Reviews | Pitchfork
  43. ^ Braidwood, Stefan. “Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not < PopMatters”. Popmatters.com. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  44. ^ “CG: Arctic Monkeys”. Robert Christgau. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  45. ^ By Barry Walters (ngày 21 tháng 2 năm 2006). “Whatever People Say I Am, That's What I'm Not | Album Reviews”. Rolling Stone. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  46. ^ Butler, Nick. “Arctic Monkeys - Whatever People Say I Am... (staff review) | Sputnikmusic”. Sputnikmusic. Sputnikmusic. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2012.
  47. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2014.
  48. ^ a b Sanneh, Kelefa (30 tháng 1 năm 2006). “Teen Spirit: Arctic Monkeys Observed in the Wild”. The New York Times.
  49. ^ a b “Arctic Monkeys - Whatever People Say I Am, That's What I Am Not | album reviews”. musicOMH. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2011.
  50. ^ Barton, Laura (25 tháng 10 năm 2005). “The question: Have the Arctic Monkeys changed the music business?”. The Guardian. London.
  51. ^ “NME's best British album of all time revealed”. NME.COM. 26 tháng 1 năm 2006. Bản gốc lưu trữ 6 tháng 2 năm 2006.
  52. ^ Sunday, 17 Dec. 2006 (17 tháng 12 năm 2006). “Bản sao đã lưu trữ”. TIME. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề=|title= (trợ giúp)
  53. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề=|title= (trợ giúp); Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |url lưu trữ=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày lưu trữ=|archive-date= (trợ giúp)
  54. ^ iPad iPhone Android TIME TV Populist The Page (23 tháng 1 năm 2014). “Bản sao đã lưu trữ”. TIME. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |tiêu đề=|title= (trợ giúp)
  55. ^ “News - Arctic Monkeys”. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 2 năm 2007.
  56. ^ “100 Best Albums of the 2000s: Arctic Monkeys, 'Whatever People Say I Am, That's What I'm Not'. Rolling Stone. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  57. ^ “500 Greatest Albums of All Time”. Rolling Stone. 31 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
  58. ^ Emily Barker (25 tháng 10 năm 2013). “The 500 Greatest Albums Of All Time”. NME. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
  59. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2009.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  60. ^ “Arctic Monkeys win 2006 Mercury Music Prize”. NME. 5 tháng 9 năm 2006. Truy cập 10 tháng 6 năm 2009.
  61. ^ “News - Arctic Monkeys”. 20 tháng 2 năm 2007. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 2 năm 2007.
  62. ^ “News-Arctic Monkeys”. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 2 năm 2007.
  63. ^ “Entertainment | Arctic Monkeys scoop Brits double”. BBC News. 15 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2014.
  64. ^ "Australiancharts.com – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  65. ^ "Austriancharts.at – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  66. ^ "Ultratop.be – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  67. ^ "Ultratop.be – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  68. ^ "Danishcharts.dk – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  69. ^ "Dutchcharts.nl – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  70. ^ "Arctic Monkeys: Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  71. ^ "Lescharts.com – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  72. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 5, 2006". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  73. ^ "Charts.nz – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  74. ^ "Portuguesecharts.com – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  75. ^ "Spanishcharts.com – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  76. ^ "Swisscharts.com – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  77. ^ "Swedishcharts.com – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  78. ^ 4 tháng 2 năm 2006/7502/ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  79. ^ 4 tháng 2 năm 2006/131/ "Official Independent Albums Chart Top 50" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  80. ^ "Arctic Monkeys Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  81. ^ "Arctic Monkeys Chart History (Independent Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013.
  82. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2009 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập 23 tháng 2 năm 2014.
  83. ^ “Chứng nhận album Canada – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2014.
  84. ^ “Certificeringer Marts - Maj 2010” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Denmark. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2014.
  85. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2014. Chọn 2006年03月 ở menu thả xuống
  86. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2014.
  87. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Arctic Monkeys – Whatever People Say I Am, That's What I'm Not” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2014. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Whatever People Say I Am, That's What I'm Not vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  88. ^ “Arctic Monkeys Win UK's Mercury Prize”. indiehq.com. ngày 5 tháng 9 năm 2006. Bản gốc lưu trữ 22 Tháng 3 2007. Truy cập 19 Tháng 4 2014. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date=|archive-date= (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Lịch Sử fun facts: cái tên Ivan của người Nga!
Lịch Sử fun facts: cái tên Ivan của người Nga!
Gần như ai cũng biết, khi nói về 1 người Nga bất kỳ ta mặc định anh ta là Ivan
Một số Extensions dành cho các dân chơi Visual Code
Một số Extensions dành cho các dân chơi Visual Code
Trước khi bắt tay vào cốt thì bạn cũng nên tự trang trí vì dù sao bạn cũng sẽ cần dùng lâu dài hoặc đơn giản muốn thử cảm giác mới lạ
[Target Elimination - Vanishing Illusions] Hướng dẫn sơ lược về Clear và treo Auto ở boss Selena
[Target Elimination - Vanishing Illusions] Hướng dẫn sơ lược về Clear và treo Auto ở boss Selena
Do cơ chế Auto hiện tại của game không thể target mục tiêu có Max HP lớn hơn, nên khi Auto hầu như mọi đòn tấn công của AG đều nhắm vào Selena
Sunset Hill - game phiêu lưu giải đố vẽ tay cực đẹp
Sunset Hill - game phiêu lưu giải đố vẽ tay cực đẹp
Sunset Hill - game phiêu lưu giải đố vẽ tay cực đẹp sẽ phát hành trên PC, Android, iOS & Nintendo Switch mùa hè năm nay