Thiền sư Giác Hải (覺海, 1024 (? 1023) – 1138) là người họ Nguyễn [1], húy Nguyễn Viết Y (Nguyễn Quốc Y), pháp hiệu Giác Hải tính chiếu đại sư[2] bài vị chùa viên quang ghi Diệu thông xung mặc hoằng hóa đại pháp sư[3] là thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông[4].
Thiền sư Giác Hải tên húy là Nguyễn Viên Y (Nguyễn Quốc Y), sinh năm thứ 15 - Giáp Tý, niên hiệu Thuận Thiên (1023), mất ngày mùng 4 tháng giêng năm Thiệu Minh (1138) đời vua Lý Anh Tông, thọ 115 tuổi là người hương Hải Thanh, phủ Hải Thanh (đời trần là Thiên Thanh sau đổi là phủ Xuân Trường thuộc huyện Xuân Trường - Giao Thủy, tỉnh Nam Định)[2]
Theo sách "Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược" (Phòng Địa chí - Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì: Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền - Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viết Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành.[5]
Theo Đại Nam nhất thống chí, Sư tên Quốc Y, hiệu Giác Hải, người Giao Thủy, Hải Nam, nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên Vệ (Yên Khánh, Ninh Bình) cùng với Nguyễn Minh Không (tức Lý Quốc Sư) kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Được đạo rồi, bèn trở về Giao Thủy, trụ trì chùa Nghiêm Quang tức Chùa KeoHành Thiện ngày nay.[6]
Theo Địa chí Nam Định thì ngài kết bạn với Dương Không Lộ, Từ đạo Hạnh và cùng sang Tây Trúc thành đạo.
Thiền sư có 2 người con trai được vua gia ân cho làm quan, bia ký chùa Viên Quang cho biết, cháu 4 đời Lý Tường Dĩnh làm đến Thái sư và cũng làm tăng như ngài.[7]
Thuở thiếu thời, ông làm nghề đánh cá, thường lênh đênh trên sông biển.
Năm 25 tuổi, ông dứt bỏ thế nghiệp, xuống tóc đi tu. Lúc đầu, ông với Nguyễn Minh Không (có tài liệu ghi là Không Lộ) theo học đạo với nhà sư Hà Trạch ở chùa Diên Phước (sau sư trụ trì chùa này). Sau sư lại kế thừa dòng pháp Vô Ngôn Thông.
Thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128), thiền sư Giác Hải và Thông Huyền chân nhân có lần được vời vào hoàng cung ngồi hầu vua. Mỗi lần vua ra chơi Hải Thanh bao giờ cũng vào chùa thăm ông trước.
Đến đời vua Lý Thần Tông (1128-1137), thiền sư Giác Hải được nhiều lần triệu vào cung, song ông đều viện cớ già yếu để từ chối.
Lúc sắp tịch, thiền sư gọi chúng đến dạy kệ rằng:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.
Dịch nghĩa:
Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết.,
Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kỳ hạn của chúng.
Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo
Chớ nên bận tâm về hoa với bướm.
Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi xuống ngay góc đông nam nhà phương trượng. Thiền Sư ngồi nói chuyện đến sáng rồi ngồi ngay ngắn mà mất.[8]. Vua xuống chiếu cho lấy thuế ba mươi hộ để cúng hương hỏa, và cho hai người con trai [9] của thiền sư ra làm quan để tỏ lòng khen thưởng.
Nhân dân các nơi lấy ngày mùng 4 tháng giêng làm ngày húy nhật ngài.[7]
Đời vua Lý Nhân Tông, Sư (Giác Hải) thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo "Đang còn một con, để đó cho Sa môn". Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen:
Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải Thanh, vua tất đến chùa Sư trước.
Một hôm, vua hỏi Sư: "Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng?". Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho pháp hiệu Giác Hải tính chiếu đại sư[2] và một kiệu vai, để ra vào của khuyết...
Di tích lịch sử văn hóa chùa Viên Quang được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng năm 1991, thuộc làng Nghĩa Xá - Xuân Ninh - Xuân Trường - Nam Định là nơi thiền sư Giác Hải trụ trì và viên tịch. Chùa có lối bài trí tiền Phật hậu Thánh.
Tại đây còn lưu giữ tấm bia đá "Viên Quang tự bi minh tính tự" do Dĩnh Đạt soạn đề năm Thiên Trù Duệ Vũ thứ ba (1122) ca ngợi công đức ngài Giác Hải.[11]
Ban đầu thời Lý, chùa dựng ở vạn Giao Thủy, hương Hải Thanh, tên chữ Diên Phúc, vua Lý Anh Tôn dổi làm Viên Quang sau dời đổi về xứ Bát Dương phủ Xuân Trường (ngày nay là khu vực Nam Hồng - Nam Trực - Nam Định) đến năm 1866 sông xói lở nhân dân dời về khu Lục Cơ - Hộ Xá sau đổi Nghĩa Xá - Xuân Trường- Nam Định.
Theo Ngô Vi Liễn thì chùa còn có tháp mộ thờ ngài Nguyễn Minh Không[12]
Làng Yên Vệ thuộc xã Khánh Phú huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Nơi đây có đền thượng và chùa Phúc Long, là một quần thể kiến trúc có giá trị về lịch sử và văn hoá. Chùa Phúc Long thờ phật và thờ Tiên thiên Thánh Mẫu, mẹ của Giác Hải thiền sư. Đền Thượng thờ tam thánh: Giác Hải, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.
Lễ hội làng Yên Vệ hàng năm được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng là ngày giỗ của Giác Hải, sau khi tế thánh có thi đấu vật.
Sách Thiền uyển tập anh, mục: "Thiền sư Giác Hải". Bản dịch của Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga. Nhà xuất bản Văn học, 1990. Bản điện tử ở đây: [1]Lưu trữ 2011-08-27 tại Wayback Machine
^Sách Thiền uyển tập anh không cho biết tên tục, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược cho biết ông tên húy là Nguyễn Viết Y. Song tra trong sách Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Ninh Bình, mục "Từ miếu", thì thấy chép: "Đền đời Nguyễn Giác Hải ở tại xã Yên Vệ, huyện Yên Khánh (nay thuộc Ninh Bình). Thần họ Nguyễn tên Quốc Y, hiệu Giác Hải, người Giao Thủy, Hải Nam (nay là tỉnh Nam Định) sinh khoảng thời Lý Thái Tông. Nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên Vệ, cùng với Nguyễn Minh Không (tức Lý Quốc Sư) kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Được đạo rồi, bèn trở về Giao Thủy, trụ trì chùa Nghiêm Quang". Theo GS. Lê Mạnh Thát thì chùa Nghiêm Quang tức là chùa Thần Quang, còn được gọi là chùa Keo, hiện tọa lạc ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
^Chép theo Thiền uyển tập anh. Sách An Nam chí nguyên 3 tờ 211 chép tương tự: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có Sao Hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất".
^Trước năm 25 tuổi Nguyễn Giáp Hải làm nghề đánh cá, đã có vợ con, sau mới xuất gia (theo chú thích của Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga).
^Phiên âm Hán-Việt: Liễu dụng nữ đầu bạch/ Báo nhĩ tác giả thức / Nhược vẫn Phật cảnh giới/ Long môn tao điểm ngạch. GS. Lê Mạnh Thát chú thích: "A giác nữ đầu bạch": người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. "Long môn tao điểm ngạch": theo tích tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng (Long môn) để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về.