Binh chủng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa | |
---|---|
Hoạt động | 1956 – 1975 |
Quốc gia | Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Phân loại | Chủ lực quân |
Bộ phận của | Bộ Tổng Tham mưu |
Tên khác | Thiết Kỵ |
Khẩu hiệu | Mau - Mạnh |
Tham chiến | - Trận Mậu Thân - Mùa hè đỏ lửa |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy nổi tiếng | - Phan Hòa Hiệp - Vĩnh Lộc - Lý Tòng Bá |
Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa (1955-1975) (tiếng Anh: Vietnamese Armored Cavalry Corp, VNACC) - còn gọi là Thiết Kỵ - trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là lực lượng xung kích tác chiến và cơ động trên các chiến trường với hỏa lực mạnh. Thường xuyên phối hợp với các đơn vị Bộ binh, Nhảy dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân để giải quyết nhanh chóng trận chiến theo chiến thuật "Bộ binh tùng Thiết". Luôn luôn là một trong các thành phần tham gia những cuộc hành quân quy mô lớn (trong đó bao gồm cả thành phần Hải, Lục, Không quân và Pháo binh).
Năm 1950, Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam. Đã được Quân đội Liên hiệp Pháp hỗ trợ để thành lập một đơn vị Thám thính xa. Khi hiệp định Genève được ký kết chia đôi đất nước vào ngày 20 tháng 7 năm 1954. Binh chủng Thiết giáp gồm 1 Liên đoàn Thủy xa và 4 Trung đoàn Biệt lập. Năm 1955, nền Đệ Nhất Cộng hòa hình thành thì Bộ chỉ huy Thiết giáp mới được chính thức thành lập.
Bộ chỉ huy Thiết Giáp được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1955 do Trung tá Dương Ngọc Lắm làm Chỉ huy trưởng đầu tiên.
Những chiến xa đầu tiên của binh chủng đều thuộc loại M-24 Chaffees hạng nhẹ và loại M-8 cháy bánh (Đều do Quân đội Pháp để lại). Đến năm 1956, Thiết Giáp Kỵ Binh được tổ chức tiêu chuẩn hơn gồm những Trung đoàn Kỵ binh, mỗi Trung đoàn có 2 Chi đoàn được trang bị xe tăng M-3, M-8, và M-24.
Thời gian từ năm 1957-1962, Thiết kỵ chỉ giữ một vai trò khiêm nhường trên chiến trường miền Nam, vì địa hình nhiều rừng rậm và sông rạch lầy lội không thích hợp với di chuyển của Chiến xa. Tuy nhiên với nhu cầu của chiến trường, những Thiết vận xa M-113 (còn gọi là xe tăng lội nước) được đem ra áp dụng và rất hữu hiệu với các mặt trận ở đồng bằng và các cuộc hành quân ở vùng 4 chiến thuật. Sau đó các Thiết vận xa M-113 được trang bị thêm lá chắn và hỏa lực mạnh hơn để trở thành loại Thiết xa đa dụng của Binh chủng Thiết giáp (cần phân biệt chiến xa hay xe tăng có nhiệm vụ chính là dùng hỏa lực tiêu diệt địch quân, còn thiết vận xa có mục đích nguyên thủy là dùng để chở quân đổ bộ vào mục tiêu).
Năm 1964, mẫu xe tăng M-24 cũ kỹ được thay thế bằng mẫu xe tăng M-41A3 (Walker Bulldog) tối tân hơn với hỏa lực chính là đại bác 76mm và đại liên 50 cal(Đạn cỡ 12,7mm, sau thay bằng đại liên M-60 nhẹ và tác xạ nhanh hơn) (Loại này tuy bị coi là nhỏ bé chật chội đối với người tây phương cồng kềnh, nhưng đối với người Việt Nam nhỏ tác thì lại rất vừa vặn và hữu hiệu). Có 5 Chi đoàn xe tăng M-41 chẳng bao lâu đã trở thành xương sống của Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh. Cũng trong năm này, Bộ chỉ huy Thiết kỵ được lệnh giải tán vào giữa tháng 11. Sau đó 5 tháng vào ngày 15 tháng 4 năm 1965 được tái lập và đặt Bộ chỉ huy tại trại Phù Đổng, Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Gia Định.
Trong thập niên 1960, lực lượng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa có ưu thế khá lớn vì quân Giải phóng miền Nam thời kỳ này chưa có xe tăng, xe thiết giáp. Đến đầu thập niên 1970, quân Giải phóng bắt đầu sử dụng các loại xe tăng T-54 và PT-76 (năm 1968, PT-76 xuất hiện tại Làng Vây và Khe Sanh) để yểm trợ cho bộ binh. Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ canh tân qua chương trình Việt Nam hoá chiến tranh và được trang bị loại chiến xa tối tân hạng trung M48 Patton (trang bị hoả lực đại bác 90mm và có gắn máy ngắm hồng ngoại Xenon) để tương ứng đối đầu với xe tăng T-54 được trang bị đại bác 100mm của đối phương. Trong những cuộc hành quân lớn và quy mô như Vượt biên qua Campuchia năm 1970, Hạ Lào năm 1971 và trận chiến Mùa hè đỏ lửa năm 1972, lực lượng xe tăng và xe thiết giáp của Binh chủng Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa đã bị thiệt hại đáng kể.
Tính đến năm 1975, lực lượng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa gồm có Bộ Chỉ Huy tại Trung ương và 4 Bộ Tư lệnh Lữ đoàn tại 4 Quân khu, trong đó gồm có: 3 Thiết đoàn Chiến xa M-48, 18 Thiết đoàn Kỵ binh M-113 và trong đó có 13 Chi đoàn Chiến xa M-41 được phối trí đều và thích ứng theo địa hình cho 4 vùng chiến thuật: Vùng 1, 2 và 4, mỗi vùng 5 Thiết đoàn, Vùng 3 có 6 Thiết đoàn. Ngoài ra phối trí cho các Tiểu khu, mỗi Tiểu khu có 1 Chi đội thám thính xa Cadillac Gage Commando Vehicle V-100 (di chuyển bằng bánh hơi, rất cơ động và nhanh lẹ). Một Chi đoàn gồm đủ các loại: xe tăng M-48, xe tăng M-41, xe thiết giáp M-113 và V-100 để cho khóa sinh tập huấn tại Trường huấn luyện Thiết giáp. Số còn lại thuộc dụng Bộ Chỉ huy Thiết giáp Trung ương. Tổng số là 21 Thiết đoàn, trang bị lên tới trên 2.000 xe tăng - xe thiết giáp các loại.
Sau năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thu giữ được hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp của VNCH. Số xe này tiếp tục được sử dụng sau đó.
Stt | Đơn vị | Chủng loại | Trực thuộc | Họ và tên chỉ huy | Cấp bậc | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|---|
Võ bị Địa phương Trung Việt (Huế) K1[2] |
Phối thuộc Quân đoàn I | |||||
M.113 Chiến xa M.41 |
||||||
Phối thuộc SĐ 2 Bộ binh | ||||||
Phối thuộc SĐ 1 Bộ binh | ||||||
Phối thuộc SĐ 3 Bộ binh | ||||||
Võ bị Đà Lạt |
Phối thuộc Quân đoàn II | |||||
Võ bị Đà Lạt K18[3]
Nguyễn Chinh Phu
|
|
|||||
M.113 Chiến xa M.41 |
||||||
Phối thuộc SĐ 23 Bộ binh | ||||||
Võ bị Đà Lạt K10 Kiêm Lữ đoàn phó |
Phối thuộc SĐ 22 Bộ binh | |||||
Võ bị Đà Lạt K6 |
Phối thuộc Quân đoàn III | |||||
M.113 Chiến xa M.41 |
||||||
Võ khoa Thủ Đức K5p (Khóa 11B Trừ bị Đà Lạt) | ||||||
Võ khoa Thủ Đức K5[5] |
Phối thuộc SĐ 5 Bộ binh | |||||
Phối thuộc SĐ 25 Bộ binh | ||||||
Phối thuộc SĐ 18 Bộ binh | ||||||
Võ khoa Thủ Đức K2 |
||||||
M.113 |
||||||
Võ khoa Thủ Đức K10 |
Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Chức vụ | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Võ bị Đà Lạt K5 |
Kiêm Tư lệnh Quân đoàn III | |||
Võ bị Đà Lạt K5 |
||||
Võ khoa Nam Định[9] |
||||
Võ khoa Thủ Đức K5 |
||||
Trường Thiết giáp |
Đơn vị | Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|---|---|
Võ bị Địa phương Trung Việt Huế K1 |
Sau cùng là Chuẩn tướng Tổng trưởng Thông tin | ||||
Võ khoa Thủ Đức K1 |
Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac | ||||
Võ khoa Thủ Đức |
Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phú Yên | ||||
Tư lệnh cuối cùng | |||||
Võ bị Đà Lạt K5 |
Năm 1973-1974, giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Pleiku. Năm 1974-1975, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Thiết giáp Trung ương | ||||
Tư lệnh cuối cùng | |||||
Tư lệnh lần thứ nhất | |||||
Võ khoa Thủ Đức K5 |
|||||
Tư lệnh lần thứ hai. Thăng cấp Chuẩn tướng năm 1974 | |||||
Võ khoa Thủ Đức K3 |
Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Dương | ||||
Tư lệnh cuối cùng |
Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Tại nhiệm | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Võ bị Đà Lạt k5 |
Giải ngủ ở cấp Thiếu tá | |||
Giải ngũ ở cấp Trung tá | ||||
Võ khoa Nam Định |
Sau cụng là Thỉếu tướng | |||
Sau cùng là Đại tá | ||||
Võ bị Lục quân Pháp |
Sau cùng là Trung tướng | |||
Võ khoa Nam Định |
Sau cùng là Đại tá | |||
Sau cùng là Trung tướng | ||||
Võ bị Đà Lạt K3 |
Sau cùng là Thiếu tướng | |||
Võ khoa Thủ Đức K1 |
Toàn gia đình Trung tá Nguyễn Tuấn bị VC sát hại ở Tết Mậu thân (trừ một người con trai), Trung tá Nguyễn Tuấn được truy thăng cấp Đại tá. Người con trai còn sống là Nguyễn Từ Huấn sau 1975 theo chú ruột là Đại tá Nguyễn Tú di tản sang Hoa Kỳ định cư, đến tuổi thành niên ông Nguyễn Từ Huấn gia nhập Quân chủng Hải quân Hoa Kỳ, năm 2019 được vinh thăng Phó Đề đốc (chuẩn tướng) Hải quân Hoa Kỳ. | |||
Võ khoa Nam Định |
Sau cùng là Trung tá | |||
Sau cùng là Đại tá | ||||
Võ bị Đà Lạt K10 |
||||
Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Tại chức | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt |
Sau cùng là Thiếu tướng Đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn. Giải ngũ năm 1964 | |||
Võ bị Đà Lạt K3 |
Sau cùng là Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng | |||
Võ khoa Thủ Đức K2 |
Sau cùng giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà (Quảng Nam và Đà Nẵng). Tử nạn mất tích trên phi cơ A.37 sau khi thăng cấp Chuẩn tướng được 2 ngày | |||
Sau cùng là Trung tướng Tổng tham mưu trưởng 1 ngày (28/4/1975) | ||||
Võ bị Đà Lạt K5 |
Xử lý thường vụ đến ngày Bộ Tư lệnh Thiết giáp tạm giải tán 5 tháng. Sau cùng là Đại tá Thị trưởng Cam Ranh (Trước nhiệm kỳ của Đại tá Trần Công Liễu) | |||
Khi Bộ Tư lệnh Thiết giáp tái thành lập. Sau cùng là Thiếu tướng CHT Trường Võ bị Đà lạt | ||||
Sau cùng là Đại tá. | ||||
Võ khoa Nam Định |
Chỉ huy trưởng lần 1 | |||
Sau cùng là Chuẩn tướng Trưởng ban Quân sự 2 bên | ||||
Chỉ huy Trưởng lần 1 | ||||
Chỉ huy Trưởng Lần 2. | ||||
Võ bị Đà Lạt K6 |
||||
Chỉ huy Trưởng lần 2 | ||||
14 | Nguyễn Chinh Phu | Thiếu Tá | 03/1975-04/1975 | Chĩ huy Thiết đoàn 21 |
Stt | Họ và Tên | Cấp bậc | Chức vụ sau cùng |
Chú thích |
---|---|---|---|---|
Kiêm Chỉ huy trưởng Thiết giáp |
||||
Nguyên Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh. Mùa hè năm 1972 hy sinh tại mặt trận Dakto (Tân Cảnh), Kontum. Được truy thăng Chuẩn tướng. | ||||
Võ bị Đà Lạt K10 |
Chiến đoàn Đặc nhiệm |
Nguyên Đại tá Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 5 kiêm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn Đặc nhiệm 52. Mùa hè năm 1972 tử trận tại mặt trận Chơn Thành, Bình Long. Được truy thăng Chuẩn tướng. |