Boeing Bird of Prey

Bird of Prey
Kiểu Máy bay thử nghiệm trình diễn công nghệ tàng hình
Quốc gia chế tạo Hoa Kỳ
Hãng sản xuất McDonnell Douglas / Boeing
Chuyến bay đầu tiên Ngày 11 tháng 9 năm 1996
Ngừng hoạt động Tháng 4 năm 1999
Tình trạng Trưng bày tại bảo tàng
Số lượng sản xuất 1 chiếc

Boeing Bird of Prey là một loại máy bay thử nghiệm trình diễn công nghệ tàng hình thuộc dự án đen của Mỹ, được phát triển bởi McDonnell DouglasBoeing vào thập niên 1990.[1] Công ty tham gia dự án đã tài trợ 67 triệu USD,[1] và đây là một chương trình có chi phí thấp so với nhiều chương trình khác có quy mô tương tự. Công nghệ và vật liệu phát triển cho Bird of Prey sau này được sử dụng trên máy bay chiến đấu không người lái Boeing X-45. Bird of Prey là một dự án nội bộ, do đó nó không được đặt tên định danh là máy bay-X. Mỹ không có kế hoạch đưa loại máy bay này vào sản xuất hàng loạt, và chỉ dùng cho trình diễn công nghệ.

Thiết kế và phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phận Phantom Works của công ty McDonnell Douglas bắt đầu phát triển chiếc Bird of Prey vào năm 1992 tại Khu vực 51 ở bang Nevada. Tên của máy bay được lấy cảm hứng từ tàu chiến vũ trụ Klingon Bird of Prey trong loạt phim truyền hình Star Trek.[2] Sau khi Boeing và McDonnell Douglas sáp nhập vào năm 1997, bộ phận Phantom Works trực thuộc công ty con Boeing Defense, Space & Security.

Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào năm 1996, và có thêm 39 chuyến bay nữa được thực hiện cho đến khi chương trình kết thúc vào năm 1999.[1] Bird of Prey có thiết kế tàng hình để ngăn chặn việc bị phát hiện hoặc bị theo dõi, và được cho là đã từng trải qua thử nghiệm khả năng ngụy trang chủ động, nghĩa là bề mặt lớp vỏ có thể thay đổi màu sắc hoặc độ sáng để phù hợp với môi trường xung quanh.[3]

Vì là máy bay trình diễn nên Bird of Prey sử dụng động cơ tua-bin phản lực cánh quạt thuộc hàng thương mại có sẵn trên thị trường, còn hệ thống thủy lực phải điều khiển bằng thủ công thay vì bằng hệ thống máy tính giao diện điện tử (fly-by-wire). Điều này rút ngắn thời gian phát triển chế tạo và tiệt kiệm chi phí đáng kể. (Một chiếc máy bay thuộc loại sản xuất hàng loạt sẽ có bộ điều khiển bằng máy tính).

Hình dạng của Bird of Prey đủ ổn định về mặt khí động học để có thể bay mà không cần chỉnh sửa bằng máy tính. Độ ổn định khí động học một phần là do lực nâng được tạo bởi mép cánh nhô ra dọc theo thân máy bay (chine) tương tự một số máy bay khác như SR-71 Blackbird. Điều này giúp cung cấp lực nâng cho phần mũi khi đang bay. Hình dạng này giúp máy bay ổn định mà không cần phải có đuôi ngang và bánh lái thẳng đứng thông thường, hiện là hình dạng tiêu chuẩn cho máy bay không người lái tàng hình sau này như X-45X-47, và chúng chính là những máy bay không đuôi sử dụng bánh lái kéo (phanh hơi ở đầu cánh sử dụng không đối xứng) để kiểm soát sự lúc lắc và sự lệch hướng.

Ngày 18 tháng 10 năm 2002, Bird of Prey được công bố tên định danh ngầm là YF-118G.[1][4]

Trưng bày

[sửa | sửa mã nguồn]
Bird of Prey trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ

Bird of Prey được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳcăn cứ không quân Wright-Patterson gần Dayton, Ohio vào ngày 16 tháng 7 năm 2003.

Thông số kỹ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Dữ liệu lấy từ Jane's All The World's Aircraft 2003–2004[5]

Đặc điểm tổng quát

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiệu suất bay

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Vận tốc tối đa: 482 km/h (299 dặm/giờ; 260 hải lý/giờ)
  • Trần bay: 6.100 m (20.000 ft)

Máy bay có sự phát triển liên quan

Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d "Boeing Unveils Bird of Prey Stealth Technology Demonstrator" Lưu trữ 2004-10-10 tại Wayback Machine. Boeing. Ngày 18 tháng 10 năm 2002.
  2. ^ National Museum of the United States Air Force literature
  3. ^ "Now you see it, now you won't: Boeing lifts the veil on stealthy Bird of Prey". Jane's International Defence Review. Ngày 2 tháng 12 năm 2002.
  4. ^ Suciu, Peter (ngày 1 tháng 5 năm 2020). “Boeing's Stealth YF-118G 'Bird of Prey' Was Straight Out of Science Fiction”. The National Interest. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
  5. ^ Jackson 2003, tr. 580.
  • Jackson, Paul. Jane's All The World's Aircraft 2003–2004 . Coulsdon, Vương quốc Anh: Jane's Information Group, năm 2003. ISBN 0-7106-2537-5.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Cảm nhận sách: lối sống tối giản thời công nghệ số - Cal Newport
Cảm nhận sách: lối sống tối giản thời công nghệ số - Cal Newport
Cuốn sách “lối sống tối giản thời công nghệ số” là một tập hợp những quan điểm, suy tư của Cal Newport về cách sử dụng công nghệ ngày nay
Nhân vật Gamma - The Eminence in Shadow
Nhân vật Gamma - The Eminence in Shadow
Gamma (ガンマ, Ganma?) (Γάμμα) là thành viên thứ ba của Shadow Garden, là một trong Seven Shadows ban đầu
Distinctiveness quan trọng như thế nào?
Distinctiveness quan trọng như thế nào?
Tức là thương hiệu nào càng dễ mua, càng được nhớ đến trong nhiều bối cảnh mua hàng khác nhau thì sẽ càng được mua nhiều hơn và do đó có thị phần càng lớn
Những điều khiến Sukuna trở nên quyến rũ và thành kẻ đứng đầu
Những điều khiến Sukuna trở nên quyến rũ và thành kẻ đứng đầu
Dáng vẻ bốn tay của anh ấy cộng thêm hai cái miệng điều đó với người giống như dị tật bẩm sinh nhưng với một chú thuật sư như Sukuna lại là điều khiến anh ấy trở thành chú thuật sư mạnh nhất