Britney (album)

Britney
Bìa bản tiêu chuẩn
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành31 tháng 10 năm 2001 (2001-10-31)
Thu âmTháng 2 – Tháng 7, 2001
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng39:47
Hãng đĩaJive
Sản xuất
Thứ tự album của Britney Spears
Oops!... I Did It Again
(2000)
Britney
(2001)
In the Zone
(2003)
Bìa khác
Bìa bản giới hạn đặc biệt
Bìa bản giới hạn đặc biệt
Đĩa đơn từ Britney
  1. "I'm a Slave 4 U"
    Phát hành: 25 tháng 9, 2001
  2. "Overprotected"
    Phát hành: 10 tháng 12, 2001
  3. "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman"
    Phát hành: 7 tháng 1, 2002
  4. "I Love Rock 'n' Roll"
    Phát hành: 27 tháng 5, 2002
  5. "Boys"
    Phát hành: 24 tháng 6, 2002
  6. "Anticipating"
    Phát hành: 25 tháng 6, 2002

Britneyalbum phòng thu thứ ba của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 31 tháng 10 năm 2001 bởi Jive Records. Với mong muốn chuyển đổi phong cách âm nhạc từ thể loại teen pop của hai album trước, ...Baby One More Time (1999) và Oops!... I Did It Again (2000), Spears bắt đầu khám phá thêm nhiều chất liệu nhạc mang hơi hướng trưởng thành hơn cho album tiếp theo. Britney là sự kết hợp giữa popR&B bên cạnh những ảnh hưởng của EDM và đôi khi pha trộn disco, hip hop, rockelectronica, với nội dung lời bài hát chủ yếu đề cập đến tuổi mới lớn, sự trưởng thành, kiểm soát và tình dục. Britney có sự tham gia của một loạt nhà sản xuất, bên cạnh những cộng tác viên quen thuộc như Max MartinRami Yacoub. Khác với những album trước, nữ ca sĩ cũng đóng góp nhiều hơn cho dự án, tham gia viết lời cho sáu bài hát.

Britney nhận được những ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự tiến bộ trong âm nhạc của Spears, nhưng chỉ trích hình tượng ngày càng khiêu khích của cô. Mặc dù vậy, album gặt hái thành công thương mại lớn trên toàn cầu, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Áo, Canada, Đức và Thụy Sĩ, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những thị trường khác, bao gồm vươn đến top 5 ở Úc, Bỉ, Pháp, Ireland, Nhật Bản, Na Uy, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, Britney ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 746,000 bản được tiêu thụ, sở hữu doanh số tuần đầu cao nhất của một nghệ sĩ nữ trong năm 2001 và giúp Spears trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có ba album đầu tay đều đạt ngôi vị quán quân trong tuần ra mắt. Tính đến nay, album bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới, trở thành một trong những album bán chạy nhất thế kỷ 21.

Sáu đĩa đơn đã được phát hành từ Britney. "I'm a Slave 4 U" lọt vào top 10 ở 20 quốc gia nhưng chỉ đạt vị trí thứ 27 trên Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn chủ đạo đầu tiên của Spears không lọt vào top 10. "Overprotected" cũng đạt được thành công trên thị trường quốc tế nhưng chỉ đạt vị trí thứ 86 trên Billboard Hot 100.[a] "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman", "I Love Rock 'n' Roll" và "Boys" lọt vào top 10 ở một số quốc gia nhưng đều không lọt vào Billboard Hot 100,[b] trong khi "Anticipating" được phát hành độc quyền tại Pháp thay cho "I Love Rock 'n' Roll". Sau khi phát hành, Britney nhận được một đề cử giải Grammy tại lễ trao giải thường niên lần thứ 45 cho Album giọng pop xuất sắc nhất. Để quảng bá album, Spears thực hiện chuyến lưu diễn thứ tư Dream Within a Dream Tour, kéo dài từ tháng 11 năm 2001 đến tháng 7 năm 2002.

Thu âm và sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
"Đây là album đầu tiên tôi thực sự sáng tác và đầu tư nhiều thời gian, vì vậy khi tôi nghe toàn bộ album, cảm giác đặc biệt hơn rất nhiều. Tôi không biết liệu mình có phải là nhạc sĩ giỏi nhất thế giới không, nhưng tôi đã có rất nhiều niềm vui khi làm việc đó và hy vọng tôi sẽ tiến bộ hơn và phát triển hơn."

Spears nói về trải nghiệm sáng tác cho Britney[2]

Đối với album phòng thu thứ hai Oops!... I Did It Again, được phát hành vào tháng 5 năm 2000 và gặt hái nhiều thành công thương mại trên toàn cầu,[3] Spears hợp tác với những nhà sản xuất như Rodney Jerkins, Rami YacoubMax Martin;[4] tất cả họ đều quay lại cho Britney.[5] Nữ ca sĩ cũng làm việc với một loạt cộng tác viên khác, bao gồm cả bạn trai lúc bấy giờ Justin Timberlake.[2] Spears nhận xét rằng ban đầu cô cảm thấy "lúng túng" và "lo lắng" khi làm việc với Timberlake, nhưng dần làm quen với điều này "như một công việc".[6] Ngoài ra, cô cũng lần đầu hợp tác với bộ đôi nhà sản xuất hip hop The Neptunes. Cô tiết lộ rằng đã được truyền cảm hứng từ "rất nhiều nhạc hip-hop và R&B khi tôi thực hiện chuyến lưu diễn gần nhất. Tôi được truyền cảm hứng bởi Jay-Z và Neptunes. Tôi nói với Jive rằng tôi thực sự rất muốn làm việc với [The Neptunes]. Tôi muốn làm cho [Britney] trở nên xấu xa và vui nhộn hơn."[2] Spears còn lên kế hoạch thu âm với Missy ElliottTimbaland, nhưng cuối cùng không thành hiện thực do xung đột lịch trình.[7]

Trong quá trình thu âm Britney, Spears mong muốn "thế hệ lớn tuổi sẽ đón nhận", nói thêm rằng cô "phải thay đổi và hy vọng rằng mọi người cũng thấy điều đó thật tuyệt". Nữ ca sĩ quyết định sử dụng tên mình để đặt cho album vì phần lớn nội dung của đĩa nhạc mô tả chính con người cô. Spears thu âm 23 bài hát cho album, một vài trong số đó được cô đồng sáng tác với Brian Kierulf và Josh Schwartz. Bên cạnh đó, cô tiết lộ việc đích thân sáng tác và phát triển ý tưởng của Britney khiến dự án "đặc biệt hơn rất nhiều", đồng thời mong muốn "trở nên tốt hơn và phát triển" với tư cách một nhạc sĩ.[2] Trong khoảng thời gian thực hiện, Spears cũng làm việc với nhạc sĩ nhạc điện tử BT, nhưng thành phẩm của cả hai lại bị loại khỏi danh sách bài hát chính thức. Cô chia sẻ: "Tôi thực sự thất vọng vì chúng tôi không thể sử dụng những bài hát BT đã làm. Anh ấy là thiên tài trong mọi thứ anh làm, nhưng phong cách nhạc anh ấy lại không phù hợp với những gì tôi theo đuổi. Tôi nghĩ chúng sẽ xuất hiện ở một số phiên bản [được phát hành] ở nước ngoài."[2] Bản nhạc được BT sản xuất "Before the Goodbye" sau đó được đưa vào những phiên bản quốc tế của album.

Nhạc và lời

[sửa | sửa mã nguồn]
Spears trình diễn "I'm a Slave 4 U" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011

Britney là một đĩa hát popR&B mang âm hưởng dance.[8][9][10] Album mở đầu bằng bản nhạc chịu ảnh hưởng từ urbannhạc Trung Đông "I'm a Slave 4 U",[11] thể hiện với chất giọng thở đầy gợi cảm,[12] và nhận được nhiều sự so sánh với "Nasty Girl" của Vanity 6.[13] Spears chia sẻ rằng lời bài hát "nói về việc tôi chỉ muốn ra ngoài và quên đi mình là ai rồi nhảy múa và có một khoảng thời gian vui vẻ".[14] "Overprotected" theo phong cách Europop đề cập đến một cô gái mệt mỏi vì bị thao túng,[9] trong khi "Lonely" kể về một cô gái bước qua một mối tình rắc rối sau khi bị lừa dối, được coi là "phiên bản trẻ trung" của "What About" thể hiện bởi Janet Jackson.[12] Bản soft rock piano ballad[12] "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman", được đồng sáng tác bởi ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Dido, nói về khó khăn trong cảm xúc của một cô gái phải trải qua ở tuổi dậy thì.[15] "Boys" kết hợp phong cách R&B và hip hop,[16] và bị David Browne của Entertainment Weekly chỉ trích là "phiên bản cắt giảm từ thập niên 80 của Janet Jackson".[9] Bản nhạc lấy cảm hứng từ disco "Anticipating" đề cập đến tình bạn thân thiết giữa những người phụ nữ,[17][18] và được mô tả là gợi nhớ đến "Holiday" của Madonna và những tác phẩm disco của Kylie Minogue.[19]

Bản hát lại "I Love Rock 'n' Roll" vốn trở nên nổi tiếng bởi Joan Jett and the Blackhearts, được thể hiện với phong cách pop rock thay vì hard rock ở bản gốc.[20] "Cinderella" nói về một một cô gái đã rời bỏ bạn trai sau khi anh ta không đánh giá cao những nỗ lực của cô trong mối quan hệ[21] "Let Me Be" đề cập đến một cô gái muốn nhận được sự tin tưởng khi trưởng thành và được đưa ra ý kiến riêng.[22] "Bombastic Love" mô tả một mối tình được nhân vật chính cảm nhận rằng "hệt như trong phim".[23] Tương tự, "That's Where You Take Me" kể lại niềm vui trong một mối quan hệ trọn vẹn về mặt cảm xúc,[24] được sản xuất với những âm thanh của chuông Trung Đông và lớp giai điệu điện tử và trống lập trình.[11] Trong bản electronica được kèm theo cho phiên bản quốc tế "When I Found You", Spears hát về việc đã tìm thấy "tình yêu sâu sắc nhất" ở người bạn tâm giao của mình, người về cơ bản là phản chiếu của chính cô.[12] Britney khép lại với "What It's Like to Be Me", được đồng sáng tác và đồng sản xuất bởi Justin Timberlake, bạn trai lúc bấy giờ của Spears; Nữ ca sĩ hát về một chàng trai phải "tìm ra [cô ấy]" để "trở thành người đàn ông của [cô]".[25]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 28 tháng 1 năm 2001, Spears trình diễn tại Super Bowl XXXV.[26] Ngay sau đó, cô xuất hiện trên Total Request Live để giới thiệu một số bài hát mới của Britney.[27] Ngày 6 tháng 9, Spears ra mắt "I'm a Slave 4 U" tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2001; màn trình diễn bị chỉ trích vì cô sử dụng một con trăn vàng làm đạo cụ trên sân khấu.[28] Bốn ngày sau, cô thể hiện "I'm a Slave 4 U" trên The Rosie O'Donnell Show.[29] Spears dự kiến biểu diễn và tổ chức họp báo tại Úc vào ngày 13 tháng 9; tuy nhiên, cô đã hủy bỏ sự kiện này vì vụ tấn công 11 tháng 9 vào hai ngày trước đó, nói rằng việc tổ chức lúc bấy giờ là không phù hợp.[30] Tháng sau, Spears trình diễn tại The Tonight Show with Jay Leno.[31]

Britney được phát hành đầu tiên tại Nhật Bản vào ngày 31 tháng 10,[32] và tại Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 11 bởi Jive Records. Một album video đi kèm với tựa đề Britney: The Videos được phát hành hai tuần sau đó, bao gồm tuyển tập những video ca nhạc trước đó của cô, cảnh hậu trường, quảng cáo và một số màn trình diễn trực tiếp đáng chú ý.[33] Video đứng đầu bảng xếp hạng Top Music Videos ở Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 12.[34] Spears bắt đầu chuyến lưu diễn Dream Within a Dream TourColumbus, Ohio năm ngày trước khi Britney được phát hành ở Hoa Kỳ;[35] chuyến lưu diễn kết thúc vào ngày 28 tháng 7 năm 2002 tại Mexico City. Ngay khi chuyến lưu diễn bắt đầu, nữ ca sĩ đã trình diễn một buổi hòa nhạc đặc biệt trên HBO từ MGM Grand Garden Arena ở Las Vegas; Cher dự định sẽ cùng Spears thể hiện "The Beat Goes On", bài hát Spears đã hát lại trong ...Baby One More Time (1999), nhưng kế hoạch không thể thực hiện do xung đột lịch trình.[36]

Ngày 4 tháng 12 năm 2001, Spears trình diễn tại giải thưởng Âm nhạc Billboard năm 2001 ở Las Vegas.[37] Ngày 9 tháng 1 năm 2002, cô thể hiện "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2002.[38] Cuối tháng đó, Spears trả lời phỏng vấn cho The Frank Skinner Show ở Vương quốc Anh và The Saturday Show ở Úc.[39]Crossroads được công chiếu vào tháng 2, cho phép Spears đồng thời quảng bá cả bộ phim và album của cô.[40] Vào ngày 2 tháng 2, cô được giới thiệu với tư cách người dẫn chương trình và nghệ sĩ biểu diễn trên Saturday Night Live.[41] Một tuần sau, cô hát "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" tại NBA All-Star GameThe Tonight Show with Jay Leno.[38] Spears cũng xuất hiện trên Live with Regis and Kelly, The View,[41]giải Grammy lần thứ 44, cũng như chương trình trò chuyện ở Đức Wetten, dass..?.[42]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Spears trình diễn "Boys" trong Britney: Piece of Me năm 2014

Britney trở thành album đầu tiên của Spears không có đĩa đơn nào lọt vào top 10 bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ. Được biết, Clear Channel Entertainment đã "trừng phạt" Spears vì đội ngũ quản lý của cô không chọn họ làm đơn vị quảng bá chuyến lưu diễn Dream Within a Dream Tour bằng việc đưa cô vào danh sách đen trên các đài phát thanh của họ,[c] do đó ảnh hưởng lớn đến thành tích của các đĩa đơn tiếp theo của nữ ca sĩ, bắt đầu với "I'm a Slave 4 U".[43] Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn chủ đạo của album vào ngày 25 tháng 9 năm 2001 và nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình. Do nằm trong danh sách đen của các đài phát thanh, "I'm a Slave 4 U" chỉ đạt vị trí thứ 27 trên Billboard Hot 100,[44] trở thành đĩa đơn chủ đạo đầu tiên của Spears không lọt vào top 10. Bài hát thành công hơn trên thị trường quốc tế, ra mắt ở vị trí thứ tư trên UK Singles Chart và lọt vào top 10 ở 20 quốc gia.[45][46] Video ca nhạc cho "I'm a Slave 4 U" được đạo diễn bởi Francis Lawrence,[47] và nhận được ba đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2002.[48]

"Overprotected" được phát hành dưới dạng đĩa đơn quốc tế thứ hai của Britney vào ngày 10 tháng 12 năm 2001, và là đĩa đơn thứ ba tại Bắc Mỹ vào ngày 2 tháng 4 năm 2002. Bản phối lại Darkchild của bài hát đạt vị trí thứ 86 trên Billboard Hot 100,[44] trong khi bản gốc lọt vào top 10 ở Bỉ, Croatia, Phần Lan, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Na Uy, Ba Lan, Romania, Thụy Điển và Vương quốc Anh.[45][49] "Overprotected" được giới phê bình đánh giá cao, và nhận được một đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 45.[50] Hai video ca nhạc cho bài hát đã được phát hành– do Bille Woodruff đạo diễn cho bản gốc và Chris Applebaum đạo diễn cho bản phối lại.[51]

Được sắp xếp xen kẽ để phù hợp với lịch phát hành khác nhau của Crossroads trên toàn thế giới, "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" được chọn làm bài hát chủ đề của bộ phim và là đĩa đơn Bắc Mỹ thứ hai của Britney vào ngày 7 tháng 1 năm 2002. Đĩa đơn đạt vị trí thứ hai trên Bubbling Under Hot 100 Singles, một bảng xếp hạng mở rộng của Billboard Hot 100.[44] Bài hát có kết quả tốt hơn trên thị trường quốc tế, đạt vị trí thứ hai ở Vương quốc Anh,[45] và vươn đến top 10 ở Úc, Áo, Cộng hòa Séc, Đức, Ireland, Hà Lan và Thụy Điển.[52] Được ghi hình ở Arizona và tại Alstrom Point, video ca nhạc do Wayne Isham đạo diễn bao gồm những cảnh Spears mang đôi bốt cao bồi và hát khi đứng trên rìa vách đá và bên trong một hẻm núi có rãnh.[53]

"I Love Rock 'n' Roll" được phát hành như đĩa đơn quốc tế thứ tư của Britney vào ngày 27 tháng 5 năm 2002, đồng thời là đĩa đơn thứ năm và cũng là đĩa đơn cuối cùng tại Vương quốc Anh vào ngày 4 tháng 11, và nhận được những đánh giá trái chiều từ giới phê bình. "I Love Rock 'n' Roll" lọt vào top 10 ở Áo, Croatia, Đức, Hungary, Ireland, Bồ Đào Nha, Scotland và Slovenia,[54] trong khi đạt vị trí thứ 13 trên UK Singles Chart.[45] Được đạo diễn bởi Chris Applebaum, video ca nhạc của bài hát ghi lại cảnh Spears hát với ban nhạc của cô, một dãy loa và đèn nhấp nháy.[55] Tại Pháp, "Anticipating" được phát hành làm đĩa đơn thứ tư thay cho "I Love Rock 'n' Roll" vào ngày 25 tháng 6, và đạt vị trí thứ 38 trên French Singles Chart.[56]

Bản phối lại Co-Ed của "Boys"–hợp tác với Pharrell Williams–được chọn làm đĩa đơn thứ tư ở Bắc Mỹ và Vương quốc Anh, cũng như là đĩa đơn quốc tế thứ năm và cuối cùng của Britney vào ngày 24 tháng 6 năm 2002, đồng thời là đĩa đơn thứ hai từ nhạc phim cho Austin Powers in Goldmember. "Boys" đạt vị trí thứ 22 trên Bubbling Under Hot 100 Singles ở Hoa Kỳ,[44] và đạt vị trí thứ bảy trên UK Singles Chart.[45] Video ca nhạc cho đĩa đơn được đạo diển bởi Dave Meyers, có sự góp mặt của Spears, Williams và Mike Myers trong vai Austin Powers tại một bữa tiệc bên trong lâu đài, bên cạnh sự xuất hiện của các diễn viên Jason Priestley, Justin BrueningTaye Diggs.[55] Video được đề cử cho Video xuất sắc nhất từ một bộ phim tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2003, nhưng để thua "Lose Yourself" của Eminem.[57]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Hiệu suất chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic58/100[58]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[8]
Blender[59]
Christgau's Consumer Guide(2-star Honorable Mention)[60]
Dotmusic6/10[19]
Entertainment WeeklyC[61]
NME7/10[10]
Q[62]
Rolling Stone[63]
Spin5/10[64]
Slant Magazine[11]

Tại Metacritic, chuyên trang thống kê điểm trung bình từ những bài đánh giá chuyên môn của các nhà phê bình chính thống, album nhận được 58 trên 100 điểm dựa trên dựa trên 13 bài đánh giá, đông nghĩa với "đánh giá nhìn chung là trái chiều hoặc trung bình".[65] David Browne của Entertainment Weekly cảm thấy hình tượng ngày càng khiêu khích của Spears là thiếu tự nhiên, cho rằng "như một ma cà rồng trinh nữ vụng về" với "một vài động thái đầy thăm dò".[61] Nikki Tranton của PopMatters khen ngợi quá trình sản xuất các bài hát, nhưng thắc mắc liệu Spears đã sẵn sàng để trở thành một người phụ nữ trưởng thành trong ngành công nghiệp âm nhạc hay chưa.[12] Sal Cinquemani của Slant Magazine cũng tán thành, viết rằng mặc dù "[album] Britney, hoàn thành sứ mệnh của cô về niềm vui tội lỗi (đĩa chắc chắn thỏa mãn hơn sự phát triển chậm rãi của Oops!... I Did It Again vào năm ngoái), đã đến lúc Spears ngừng việc trêu đùa như vậy và làm điều gì đó thỏa mãn sự chờ đợi của đám đông."[11]

Stephen Thomas Erlewine của AllMusic đưa ra đánh giá tích cực, cảm thấy rằng album "cố gắng đào sâu tính cách của [Spears]" và chứng tỏ rằng cô "biết sẽ phải làm gì khi hiện tượng teen-pop những năm 1999–2001 trôi qua vĩnh viễn".[8] Tương tự, một nhà phê bình từ Billboard nhận xét rằng dự án là "một bộ sưu tập đa dạng và vô cùng thỏa mãn".[66] Chris Heat của Dotmusic khen ngợi Spears vì "tận dụng cơ hội để chấp nhận những rủi ro kỳ lạ và thêm phần thú vị vào âm nhạc của cô."[19] Ted Kessler của NME công nhận Britney như một "album cho lứa tuổi mới lớn" và đùa rằng đĩa hát "nghe hay nhất khi làm món phô mai pop ngon và bánh sandwich dance".[10] Ngược lại, Stephen Thompson của The A.V. Club chỉ trích album, cho rằng âm nhạc "[không] hấp dẫn" và "dù không phải một cô gái hay phụ nữ, Spears đang tự mình khơi dậy cơn giận dữ của một người lớn".[67] Craig Seymore của Spin thừa nhận rằng cô "nghe có vẻ gần giống con người" nhưng lại chỉ trích rằng "phần còn lại của bản thu âm vẫn mang tính thánh ca lạnh lùng hơn bao giờ hết."[68]

Thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đề cử cho Giải thưởng Kết quả
2001[69] Giải thưởng Âm nhạc Billboard Nghệ sĩ Nữ Album của năm (Britney Spears) Đề cử
2003[50] Giải Grammy Album giọng pop xuất sắc nhất (Britney) Đề cử

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Britney ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 ở Hoa Kỳ với 745,750 được bán ra trong tuần đầu; Đây là doanh số tuần đầu cao thứ hai của một nghệ sĩ nữ lúc bấy giờ, sau Oops!... I Did It Again của chính Spears với 1.3 triệu bản.[70][71] Với thành tích trên, Spears trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có ba album phòng thu đầu tay đều ra mắt ở hạng nhất.[28] Britney cũng sở hữu doanh số tuần ra mắt cao thứ hai trong năm 2001, sau Celebrity của NSYNC với 1.88 triệu bản và là nữ nghệ sĩ có doanh số tuần đầu cao nhất năm.[71] Sau nhiều tuần liên tiếp trụ vững trong top 20, album đã bán được 3.3 triệu bản vào tháng 3 năm 2002.[72] Tính đến tháng 3 năm 2015, Britney bán được 4.4 triệu đơn vị chỉ riêng tại Hoa Kỳ và được chứng nhận bốn đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[73]

Trên phương diện quốc tế, Britney ra mắt ở vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart với doanh số tuần đầu là 44,550 bản.[74] Album sau đó bán được 316,944 bản tại đây, một sự sụt giảm đáng kể so với lượng đĩa của ...Baby One More Time (1999) và Oops!... I Did It Again (2000).[75] Britney đạt vị trí thứ tư trên cả bảng xếp hạng Oricon Albums Chart tại Nhật Bản và UK Albums Chart.[45] Tại Vương quốc Anh, album được chứng nhận Bạch kim bởi Ngành Công nghiệp ghi âm Anh (BPI) cho 300,000 bản được vận chuyển đến các nhà bán lẻ.[76] Ở phần còn lại của châu Âu, Britney ra mắt ở vị trí số một tại Áo,[77] Đức,[78] và Thụy Sĩ.[79] Năm 2002, album được chứng nhận hai đĩa Bạch kim bởi Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI) cho hai triệu bản được xuất xưởng trên khắp Châu Âu.[80] Album cũng đạt vị trí thứ tư tại Úc và được chứng nhận hai đĩa Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA).[81] Britney là album bán chạy thứ năm trên toàn cầu vào năm 2001, bán được bảy triệu bản.[82] Đến tháng 1 năm 2003, album đã bán được 10 triệu bản trên toàn thế giới.[83]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Britney – Bản tại Bắc Mỹ[5]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."I'm a Slave 4 U"The Neptunes3:23
2."Overprotected"
  • Martin
  • Rami
3:18
3."Lonely"
  • Darkchild
  • Kierulf[a]
  • Schwartz[a]
3:19
4."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman"
  • Martin
  • Rami
3:51
5."Boys"
  • Hugo
  • Williams
The Neptunes3:26
6."Anticipating"
  • Spears
  • Schwartz
  • Kierulf
  • Kierulf
  • Schwartz
3:16
7."I Love Rock 'n' Roll"Darkchild3:06
8."Cinderella"
  • Spears
  • Martin
  • Rami
  • Martin
  • Rami
3:39
9."Let Me Be"
  • Spears
  • Schwartz
  • Kierulf
  • Darkchild
  • Kierulf[a]
  • Schwartz[a]
2:51
10."Bombastic Love"
  • Martin
  • Rami
  • Martin
  • Rami
3:05
11."That's Where You Take Me"
  • Spears
  • Schwartz
  • Kierulf
  • Kierulf
  • Schwartz
3:32
12."What It's Like to Be Me"
  • Robson
  • Timberlake
2:50
Tổng thời lượng:39:47
Britney – Bản tại Châu Âu[84]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
12."When I Found You"Peter Kvint3:36
13."What It's Like to Be Me"
  • Timberlake
  • Robson
  • Robson
  • Timberlake
2:50
Tổng thời lượng:43:24
Britney – Bản đặc biệt giới hạn tại Châu Âu
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Overprotected" (Darkchild Remix Radio Edit)
  • Martin
  • Rami
  • Martin
  • Rami
  • Darkchild
3:06
15."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" (Metro Remix)
  • Martin
  • Rami
  • Dido
  • Martin
  • Rami
  • Metro
5:25
16."I'm a Slave 4 U" (Thunderpuss Radio Mix)
  • Hugo
  • Williams
 
Tổng thời lượng:55:53
Britney – Bản tại Châu Á[85]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
12."When I Found You"
  • Elofsson
  • Hill
Kvint3:36
13."I Run Away"
  • Schwartz
  • Kierulf
  • Kierulf
  • Schwartz
4:05
14."What It's Like to Be Me"
  • Timberlake
  • Robson
  • Robson
  • Timberlake
2:50
Tổng thời lượng:47:29
Britney – Bản tại Úc, Nhật Bản và Vương quốc Anh[86][87][88]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
12."When I Found You"
  • Elofsson
  • Hill
Kvint3:36
13."Before the Goodbye"
BT3:50
14."What It's Like to Be Me"
  • Timberlake
  • Robson
  • Robson
  • Timberlake
2:50
Tổng thời lượng:47:14
Britney – Bản nhạc kèm theo bản đặc biệt giới hạn quốc tế[89]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
15."Overprotected" (Darkchild Remix Radio Edit)
  • Martin
  • Rami
  • Martin
  • Rami
  • Darkchild
3:06
16."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" (Metro Remix)
  • Martin
  • Rami
  • Dido
  • Martin
  • Rami
  • Metro
5:25
17."I'm a Slave 4 U" (Thunderpuss Radio Mix)
  • Hugo
  • Williams
  • The Neptunes
  • Thunderpuss
3:18
Tổng thời lượng:59:03
Britney – Bản cao cấp[90]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
12."When I Found You"
  • Elofsson
  • Hill
Kvint3:36
13."I Run Away"
  • Schwartz
  • Kierulf
  • Kierulf
  • Schwartz
4:05
14."What It's Like to Be Me"
  • Timberlake
  • Robson
  • Robson
  • Timberlake
2:50
15."Before the Goodbye"
  • Spears
  • Transeau
  • Schwartz
  • Kierulf
BT3:50
Tổng thời lượng:51:22
Britney – Bản giới hạn đặc biệt (DVD kèm theo)
STTNhan đềThời lượng
1."Britney Trò chuyện Phần 1"1:26
2."I'm a Slave 4 U" (video ca nhạc)3:28
3."Britney Trò chuyện Phần 2"2:00
4."Lights, Camera, Action – Overprotected"3:24
5."Britney Trò chuyện Phần 3"2:58
6."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" (video ca nhạc)3:53
7."Britney Trò chuyện Phần 4"0:59
8."Overprotected" (Darkchild remix) (video ca nhạc)3:39
9."Britney Trò chuyện Phần 5"0:40
10."Hậu trường Pepsi – Right Now (Taste the Victory)"3:13
11."Britney Trò chuyện Phần 6"1:31
12."Liên kết web của Britney"0:30
Tổng thời lượng:27:41
Britney – Bản giới hạn tại Hàn Quốc (đĩa kèm theo)
STTNhan đềThời lượng
1."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" (bản album)3:53
2."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" (Spanish Fly Remix Radio Edit)3:29
3."I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" (Chocolate Puma Dub)7:37
4."I Run Away"4:06
5."Overprotected" (video ca nhạc)3:54
6."Trailer phim Crossroads tại Hoa Kỳ"1:19
Tổng thời lượng:19:05

Ghi chú

Đội ngũ sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Britney.[5]

  • John Amatiello – kỹ sư (bài 2 và 4), hỗ trợ kỹ sư (bài 8 và 10)
  • Dido Armstrong – sáng tác (bài 4)
  • James Biondolillo – sắp xếp dàn dây (bài 6)
  • BossLady – giọng nền (bài 2 và 10)
  • Sue Ann Carwell – giọng nền (bài 7)
  • Andrew Coleman – kỹ sư (bài 1 và 5)
  • Tyler Collins – giọng nền (bài 7)
  • Tom Coyne – master
  • Jaime Duncan – hỗ trợ kỹ sư (bài 12)
  • Brian Garten – kỹ sư (bài 1 và 5)
  • Stephen George – phối khí (bài 6)
  • Serban Ghenea – phối khí (bài 1 và 5)
  • Brad Gilderman – kỹ sư (bài 7)
  • Albert Hall – giọng nền (bài 7)
  • Damion Hall – giọng nền (bài 7)
  • Nana Hedin – giọng nền (bài 10)
  • Jean-Marie Horvat – phối khí (bài 3, 7 và 9)
  • Rodney Jerkins – lập trình trống (bài 3 và 9), sản xuất (bài 3, 7 và 9), sáng tác (bài 3)
  • Richard G. Johnson – hỗ trợ kỹ sư (bài 12)
  • Jennifer Karr – giọng nền (bài 3, 6, 9 và 11)
  • Steven Klein – nhiếp ảnh
  • Marc Stephen Lee – hỗ trợ kỹ sư (bài 7)
  • Thomas Lindberg – bass (bài 4)
  • Fabian Marasciullo – kỹ sư (bài 3 và 7), kỹ sư giọng hát (bài 9)
  • Max Martin – giọng nền (bài 4), kỹ sư (bài 2, 4, 8 và 10), guitar (bài 2), phối khí (bài 2, 4, 8 và 10), sản xuất (bài 2, 4, 8 và 10)
  • Charles McCrorey – hỗ trợ kỹ sư (bài 2, 4, 6, 9 và 12)
  • Daniel Milazzo – hỗ trợ kỹ sư (bài 5)
  • Pablo Munguia – kỹ sư (bài 12)
  • The Neptunes – nhạc cụ (bài 1 và 5), sản xuất (bài 1 và 5), sáng tác (bài 1 và 5)
  • Esbjörn Öhrwall – guitar (bài 4)
  • Jeanette Olsson – giọng nền (bài 4 và 8)
  • Jeff Pescetto – giọng nền (bài 7)
  • Tim Roberts – hỗ trợ kỹ sư (bài 1 và 5)
  • Wade Robson – sản xuất (bài 12), sáng tác (bài 12)
  • Nile Rodgers – guitar (bài 6)
  • Jason Scheff – giọng nền (bài 7)
  • Ryan Smith – hỗ trợ kỹ sư (bài 1)
  • Britney Spears – lên ý tưởng, sáng tác (bài 3, 6, 8, 9 và 11), giọng hát (tất cả bài hát)
  • Mark Suozzo – sắp xếp dàn dây (bài 6)
  • Rich Tapper – hỗ trợ kỹ sư (bài 11)
  • Jill Tengan – hỗ trợ kỹ sư (bài 3, 6 và 9)
  • Chris Thompson – giọng nền (bài 7)
  • Justin Timberlake – giọng nền (bài 12), sản xuất (bài 12), sáng tác (bài 12), sắp xếp giọng hát (bài 12)
  • Michael Tucker – kỹ sư (bài 2), phối khí (bài 11)
  • Rami Yacoub – kỹ sư (bài 2, 4, 8 và 10), phối khí (bài 2, 4, 8 và 10), sản xuất (bài 2, 4, 8 và 10), sáng tác (bài 2, 4, 8 và 10)
  • Yasu – kỹ sư (bài 6)

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Argentina (CAPIF)[157] Bạch kim 40.000^
Úc (ARIA)[158] 2× Bạch kim 140.000^
Áo (IFPI Áo)[159] Bạch kim 40.000*
Bỉ (BEA)[160] Bạch kim 50.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[161] Vàng 150,000[83]
Canada (Music Canada)[162] 3× Bạch kim 316,944[75]
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[163] Vàng 25.000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[164] Vàng 16,551[164]
Pháp (SNEP)[165] Bạch kim 300.000*
Đức (BVMI)[166] Bạch kim 500.000^
Hungary (Mahasz)[167] Vàng 10.000^
Nhật Bản (RIAJ)[168] Bạch kim 200.000^
México (AMPROFON)[170] Bạch kim 250,000[169]
Hà Lan (NVPI)[171] Vàng 40.000^
New Zealand (RMNZ)[172] Vàng 7.500^
Philippines (PARI)[173] Bạch kim 40.000 
Nam Phi (RISA)[118] Bạch kim 50.000*
Hàn Quốc (KMCA)[176] 274,993[d]
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[177] Bạch kim 250,000[178]
Thụy Điển (GLF)[179] Vàng 40.000^
Thụy Sĩ (IFPI)[180] 2× Bạch kim 80.000^
Anh Quốc (BPI)[182] Bạch kim 477,000[181]
Hoa Kỳ (RIAA)[186] 4× Bạch kim 4,988,000[e]
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[187] 2× Bạch kim 2.000.000*
Toàn cầu 10,000,000[83]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Ngày Phiên bản Định dạng Hãng đĩa Ct
Nhật Bản 31 tháng 10, 2001 Tiêu chuẩn CD BMG [188]
Úc 5 tháng 11, 2001 [189]
Đức [190]
Vương quốc Anh Jive
Hoa Kỳ 6 tháng 11, 2001 [192]
Đức 3 tháng 6, 2002 Giới hạn đặc biệt CD+DVD BMG [193]
Nhật Bản 5 tháng 6, 2002 [194]
Úc 10 tháng 6, 2002
Đức 30 tháng 6, 2003 Cao cấp CD
Pháp 14 tháng 10, 2003 Jive
Hoa Kỳ 25 tháng 12, 2007 Tải nhạc số [196]
24 tháng 5, 2019 Tiêu chuẩn Đĩa than (Độc quyền tại Urban Outfitters) Legacy [197]
14 tháng 8, 2020 Cassette (Độc quyền tại Urban Outfitters) [198]
Úc 31 tháng 3, 2023 Đĩa than (Màu Opaque Yellow) Sony [199]
Đức [200]
Mexico [201]
Ba Lan [202]
Vương quốc Anh [203]
Hoa Kỳ Đĩa than (Màu đen) Legacy [204]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tại Hoa Kỳ, bản phối lại của Darkchild cho "Overprotected" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba của Britney ở Hoa Kỳ thay vì bản gốc, do đó bản phối lại đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Ở những quốc gia khác, phiên bản gốc được phát hành làm đĩa đơn thứ hai.
  2. ^ "I Love Rock 'n' Roll" chưa bao giờ được phát hành dưới dạng đĩa đơn tại Hoa Kỳ, do đó không thể lọt vào bảng xếp hạng. "I'm Not a Girl, Not Yet a Woman" và "Boys" lần lượt đạt vị trí thứ hai và thứ 22 trên Bubbling Under Hot 100 Singles của Hoa Kỳ, một bảng xếp hạng gồm 25 bài hát nằm ngoài Billboard Hot 100.[1]
  3. ^ Clear Channel Entertainment trước đây từng quảng bá ...Baby One More Time Tour (1999), (You Drive Me) Crazy Tour (2000) và Oops!... I Did It Again Tour (2000–2001). Công ty được thay thế bởi Concerts West với tư cách là đơn vị quảng bá cho Dream Within a Dream Tour.
  4. ^ Tại Hàn Quốc, Britney bán được 119,139 bản trong hai tháng cuối năm 2001,[135] và thêm 83,765 bản trong suốt năm 2002,[174] theo Hiệp hội Công nghiệp Nội dung Âm nhạc Hàn Quốc. Phiên bản giới hạn của album bán được 62,101 bản vào năm 2002 và 9,988 bản trong nửa đầu năm 2003,[175] nâng tổng doanh số lên 274.993 bản.
  5. ^ Tính đến tháng 7 năm 2016, Britney đã bán được 4,400,000 bản tại Hoa Kỳ theo Nielsen SoundScan,[183] với 588,000 bản khác được bán tại BMG Music Club.[184] Nielsen SoundScan không tính các bản được bán thông qua các câu lạc bộ như BMG Music Service, vốn rất phổ biến vào thập niên 1990.[185]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Britney Spears Chart History (Bubbling Under Hot 100)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2023.
  2. ^ a b c d e Corey Moss (25 tháng 10 năm 2001). “Britney Says Britney Reflects Who Britney Is”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  3. ^ “Oops!... I Did It Again by Britney Spears”. Apple Music. 16 tháng 5 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  4. ^ “Oops!... I Did It Again — Britney Spears: Credits”. Allmusic. Rovi Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  5. ^ a b c Britney (ghi chú CD tại Hoa Kỳ). Britney Spears. JIVE Records. 2001. 01241-41776-2.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  6. ^ Jennifer Vineyard (23 tháng 8 năm 2001). “Britney Was 'Nervous' Recording With Justin”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  7. ^ Jonhson, Tina; vanHorn, Teri (25 tháng 4 năm 2001). “Missy Elliott Plays Dr. Ruth On New Single”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  8. ^ a b c Stephen Thomas Erlewine (6 tháng 11 năm 2001). “Britney — Britney Spears”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  9. ^ a b c David Browne (12 tháng 11 năm 2002). “Britney”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  10. ^ a b c Ted Kessler. “Britney Spears : Britney”. NME. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  11. ^ a b c d Cinquemani, Sal (30 tháng 10 năm 2001). “ReviewBritney Spears: Britney”. Slant Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2014.
  12. ^ a b c d e Nikki Tranter (6 tháng 11 năm 2001). “Britney Spears: Britney”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2002. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  13. ^ Shaheem Reid (6 tháng 9 năm 2001). “Britney, J. Lo, 'NSYNC Turn To Jungle, Ja Rule, Jacko For VMA Performances”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  14. ^ John Dingwall. “OTR.. Off the Record: Your Time Is Up, Jacko; Britney Wants Album Top Slot”. Daily Record.
  15. ^ Catharine Halaby (9 tháng 11 năm 2001). “For Spears, maturity is, like, cool”. Yale Daily News. The Yale Daily News Publishing Company. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  16. ^ Mayer Massim (20 tháng 11 năm 2009). “Britney Spears: 'The Singles Collection'. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  17. ^ Shaheem Reid (6 tháng 11 năm 2001). “Britney Goes Bald, Plays Tiny Dancer, Gets Caught In The Rain At Tour Kickoff”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  18. ^ Sam Lansky. “Top 10 Britney Spears Songs”. PopCrush. Townsquare Media. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  19. ^ a b c Heath, Chris (5 tháng 11 năm 2001). “dotmusic – reviews – albums – Britney”. Dotmusic. Yahoo! UK Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2014.
  20. ^ “I Love Rock 'n' Roll — Britney Spears”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  21. ^ “Britney Spears – Cinderella Lyrics”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  22. ^ “Britney Spears – Let Me Be Lyrics”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  23. ^ “Britney Spears – Bombastic Love Lyrics”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  24. ^ “Britney Spears – That's Where You Take Me Lyrics”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  25. ^ “Britney Spears – What It's Like to Be Me Lyrics”. Genius. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  26. ^ “The 10 Best Super Bowl Halftime Shows”. Sports Illustrated. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  27. ^ “Britney Spears visits 'Spankin New Music Week' on 'TRL,' 2001”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  28. ^ a b “Britney Spears Biography”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  29. ^ "The Rosie O'DOnnell Show" Episode dated 5 November 2001”. IMDb. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  30. ^ Jason Gelman (14 tháng 9 năm 2001). “Britney Spears Reacts To Terrorist Attack, New Album Titled 'Britney'. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  31. ^ Jason Gelman (24 tháng 9 năm 2001). “Britney Spears's 'Britney' Set For Worldwide Release On November 6”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  32. ^ “Amazon.co.jp: BRITNEY SPEARS : BRITNEY - ミュージック - アマゾン”. Amazon Japan. 30 tháng 6 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  33. ^ “Britney: The Videos (2001)”. Amazon.com (US). 20 tháng 11 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  34. ^ “Music Video Sales : Dec 08, 2001 | Billboard Chart Archive”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2013.
  35. ^ “Spears' Tour Delayed a Day”. Daily News. 31 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.[liên kết hỏng]
  36. ^ Kastle (25 tháng 10 năm 2001). “Britney Spears Ready To Go 'Live From Las Vegas' Without Cher”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  37. ^ Kastle (30 tháng 10 năm 2001). “Britney Spears Pushes Back U.S. Tour Launch To November 1”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  38. ^ a b Kastle (10 tháng 1 năm 2002). “Britney Spears Has A Full Schedule In 2002”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  39. ^ Matt Ashare (25 tháng 1 năm 2002). “Britney Spears Stood Up by Prince William”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  40. ^ “Crossroads”. Box Office Mojo. IMDb. 15 tháng 2 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  41. ^ a b Mark Armstrong (31 tháng 1 năm 2001). “Britney Spears To Host & Perform On 'SNL,' Timberlake Tapped For Cameo?”. Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  42. ^ “Britney Spears — IMDb”. IMDb. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  43. ^ Leeds, Jeff (25 tháng 2 năm 2002). “Clear Channel: an Empire Built on Deregulation”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023. Tháng trước, Dân biểu Howard L. Berman (D-Mission Hills) đã thúc giục Bộ Tư pháp và Ủy ban Truyền thông Liên bang điều tra các báo cáo cho rằng Clear Channel đã trừng phạt một số ngôi sao, chẳng hạn như Britney Spears, bằng cách từ chối phát bài hát của họ trên các đài phát thanh Clear Channel vì những nghệ sĩ này từ chối thuê công ty làm đơn vị quảng bá cho chuyến lưu diễn của họ.
  44. ^ a b c d “Britney Spears – Chart History”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  45. ^ a b c d e f “Britney Spears — Artist”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  46. ^ “Britney Spears – I'm a Slave 4 U”. ARIA Top 50 Singles. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  47. ^ Joe D'Angelo (20 tháng 9 năm 2001). “Britney Works Double-Time On Music Videos”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  48. ^ “MTV Video Music Awards 2002”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  49. ^ “Britney Spears – Overprotected” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  50. ^ a b “Complete list of Grammy nominees; ceremony set for Feb. 23”. San Francisco Chronicle. 8 tháng 1 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  51. ^ Joe D'Angelo (8 tháng 3 năm 2002). “Britney Addresses Her Critics In 'Overprotected' Video”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  52. ^ “Britney Spears – I'm Not a Girl, Not Yet a Woman”. ARIA Top 50 Singles. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  53. ^ Vena, Jocelyn (19 tháng 10 năm 2009). “Britney Spears Declared Her Independence With 'I'm Not A Girl' Video”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2022.
  54. ^ “Britney Spears – I Love Rock 'n' Roll” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2023.
  55. ^ a b Spears, Britney (2004). Greatest Hits: My Prerogative (DVD). Jive Records.
  56. ^ “Classement singles fusionnés (physiques & numériques)”. French Singles Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  57. ^ “2003 MTV Video Music Awards Winners”. Billboard. 28 tháng 8 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2022.
  58. ^ “Britney by Britney Spears”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  59. ^ It's hard to listen to the rest of Britney without imagining what the album would have sounded like had [the Neptunes] produced the whole thing. [#4, p.121]
  60. ^ Christgau, Robert. “CG: Britney Spears”. robertchristgau.com. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
  61. ^ a b David Browne (12 tháng 11 năm 2001). “Britney”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2022.
  62. ^ While her normal source of junior raunch [Max Martin] churns out the usual fesity hits... the remaining chastity-endorsing mush is nowhere near as exciting. [Dec 2001, p.131]
  63. ^ Barry Walters (22 tháng 11 năm 2001). “Britney”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  64. ^ Amazingly enough, she does sound almost human. [Jan 2002, p.108]
  65. ^ “Britney Reviews”. Metacritic. CBS Interactive. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  66. ^ “Reviews & Previews: Britney”. Billboard. 10 tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  67. ^ Stephen Thompson (6 tháng 11 năm 2001). “Britney Spears: Britney”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  68. ^ Seymore, Craig (tháng 1 năm 2002). “Reviews > Spin”. Spin. 18 (1): 108. ISSN 0886-3032. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2014.
  69. ^ “Alicia Keys, Shaggy Top Billboard Music Awards Nominees”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  70. ^ Silverman, Stephen (15 tháng 11 năm 2001). “Britney Spears Upsets Michael Jackson”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017. Album mới của cô, "Britney," đã bán được 745.750 bản trong tuần đầu tiên phát hành, trở thành album có doanh số ra mắt cao thứ hai trong năm.
  71. ^ a b Joe D'Angelo (14 tháng 11 năm 2001). “Oops! ... She Did It Again: Britney Spears Tops Albums Chart”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  72. ^ “Britney Summer Tour Bows In Vegas”. Billboard. 27 tháng 2 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  73. ^ Trust, Gary (24 tháng 3 năm 2015). “Ask Billboard: Britney Spears's Career Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  74. ^ Paul Cantin. 'Britney', Pink Floyd debut at top of charts”. Jam!. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  75. ^ a b Mike Bell. “Oops! Can she do it again?”. Jam!. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  76. ^ “Britney Spears: her biggest selling singles and albums revealed”. Official Charts Company. 23 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2018.
  77. ^ a b "Austriancharts.at – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  78. ^ a b c "Offiziellecharts.de – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts.
  79. ^ a b "Swisscharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  80. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2002”. International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  81. ^ “ARIA Charts — Accreditations – 2002 Albums”. Australian Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  82. ^ White, Adam (16 tháng 2 năm 2002). “Dido, Linkin Park Lead the Global 20 of 2001”. Billboard. 114 (7): 42. ISSN 0006-2510. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  83. ^ a b c Porto, Bruno (7 tháng 1 năm 2003). “Sex Machines”. O Globo (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Globo.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019. (...) và "Britney", phát hành năm 2001, đã bán được 10 triệu bản (150,000 bản tại Brazil). Alt URL
  84. ^ Britney (ghi chú CD tại châu Âu). Britney Spears. JIVE Records. 2001. 9222522.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  85. ^ Britney (ghi chú CD tại Châu Á). Britney Spears. JIVE Records. 2001. 9222542.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  86. ^ Britney (ghi chú CD tại Úc). Britney Spears. JIVE Records. 2001. 9222532.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  87. ^ Britney (ghi chú CD tại Vương quốc Anh). Britney Spears. JIVE Records. 2001. 9222532.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  88. ^ Britney (ghi chú CD tại Nhật Bản). Britney Spears. JIVE Records. 2001. ZJCI-10047.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  89. ^ “Britneys Spears - Britney”. Discogs. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2021.
  90. ^ Britney (ghi chú CD tại Tây Ban Nha). Britney Spears. JIVE Records. 2003. 9222532.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  91. ^ “Hits of the world” (PDF). Billboard. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015.
  92. ^ a b "Australiancharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  93. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  94. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  95. ^ “Hits — Os discos mais vendidos da semana”. ISTOÉ. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  96. ^ “Hits — Os discos mais vendidos da semana”. ISTOÉ. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  97. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  98. ^ “Oficiální česká hitparáda IFPI ČR – 16. týden 2002”. Marketing & Media (bằng tiếng Séc). 19 tháng 4 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2023.
  99. ^ "Danishcharts.dk – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  100. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  101. ^ “Boy Bands Crowd U.K. Charts”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  102. ^ "Britney Spears: Britney" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  103. ^ "Lescharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  104. ^ "Greekcharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  105. ^ "Album Top 40 slágerlista – {{{year}}}. {{{week}}}. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ.
  106. ^ “Tonlist Top 30” (bằng tiếng Iceland). Morgunblaðið. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2023.
  107. ^ "Irish-charts.com – Discography Britney Spears". Hung Medien.
  108. ^ Fiasco, Lance (16 tháng 11 năm 2001). “Britney Spears' 'Britney' First Week Sales Top 745,000 Units”. idobi Radio. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2015.
  109. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  110. ^ "Oricon Top 50 Albums: {{{date}}}" (bằng tiếng Nhật). Oricon.
  111. ^ “Hits of the world” (PDF). Billboard. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015.
  112. ^ "Charts.nz – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  113. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  114. ^ “OLiS – sprzedaż w okresie 12 November 2001 – 18.11.2001”. ZPAV. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2013.
  115. ^ “Portuguese Albums Chart” (PDF). Music and Media. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2020.
  116. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập September 13, 2018.
  117. ^ “RIAS CHART FOR WEEK ENDING 30 November 2001”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2001. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2023.
  118. ^ a b “Music Divas & Rock Bands Top South African Certifications”. Music Industry News Network. 2 tháng 5 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  119. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다.: 2001.11월 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
  120. ^ “Spain Albums”. Billboard: 62. 24 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2015.
  121. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Britney" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  122. ^ “Ranking de Artistas Internacionales”. Cámara Uruguaya de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2020.
  123. ^ "Britney Spears | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart.
  124. ^ "Official Independent Albums Chart Top 50" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập July 25, 2023.
  125. ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  126. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2002.06월 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
  127. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2001”. Australian Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  128. ^ “Jahreshitparade 2001 – austriancharts.at” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria. 23 tháng 12 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  129. ^ “Jaaroverzichten 2001”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  130. ^ “Rapports Annuel 2001”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  131. ^ “Canada's Top 200 Albums of 2001 (based on sales)”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2022.
  132. ^ “European Top 100 Albums 2001” (PDF). Music & Media. 22 tháng 12 năm 2001. tr. 15. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.
  133. ^ “Classement Albums - année 2001”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  134. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  135. ^ a b “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2001년 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007.
  136. ^ “Årslista Album – År 2001” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  137. ^ “Swiss End of Year Charts 2001”. Swiss Music Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  138. ^ “UK Year-end Albums 2001” (PDF). The Official Charts Company. Chartplus.co.uk. tr. 3. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  139. ^ Billboard 200 Albums – Year-End 2001”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  140. ^ “Dido, Linkin Park Lead The Global 20 Of 2001”, Billboard, 26 tháng 2 năm 2002, lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023, truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2014
  141. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2002”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  142. ^ “Jahreshitparade 2002 – austriancharts.at” (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  143. ^ “Jaaroverzichten 2002”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  144. ^ “Rapports Annuel 2002”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  145. ^ “Top 200 Albums of 2002 (based on sales)”. Jam!. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2022.
  146. ^ “TOP20.dk © 2002”. Hitlisten. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  147. ^ “Jaaroverzichten – Album 2002”. dutchcharts.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2020.
  148. ^ “European Hot 100 Singles 2002” (PDF). Music & Media. 11 tháng 1 năm 2003. tr. 14. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2020.
  149. ^ “Classement Albums - année 2002”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  150. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2017.
  151. ^ a b “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2002년 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
  152. ^ “Årslista Album – År 2002” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2020.
  153. ^ “Swiss End of Year Charts 2002”. Swiss Music Charts. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  154. ^ “UK Year-end Albums 2002” (PDF). The Official Charts Company. Chartplus.co.uk. tr. 3. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  155. ^ “2002 Year-End Charts”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2014.
  156. ^ Sherry (14 tháng 12 năm 2009). “Britney Spears dominates Billboard end-of-year charts!”. Crushable. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  157. ^ Fernández Vitar, Manuel (6 tháng 4 năm 2002). “CAPIF figures confirm Argentina's worst fears”. Billboard: 48. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2014.
  158. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2002 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  159. ^ “Chứng nhận album Áo – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo.
  160. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2011” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien.
  161. ^ “Chứng nhận album Brasil – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil.
  162. ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  163. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  164. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Britney – Britney” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  165. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
  166. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Britney Spears; 'Britney')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  167. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2002” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ.
  168. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – ブリトニー・スピアーズ – Britney” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Chọn 2001年11月 ở menu thả xuống
  169. ^ “Britney Spears dará concierto en México en julio”. La Jornada (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2 tháng 4 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2022.
  170. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Britney ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  171. ^ “Chứng nhận album Hà Lan – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld- en geluidsdragers. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2022. Enter Britney in the "Artiest of titel" box. Select 2002 in the drop-down menu saying "Alle jaargangen".
  172. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ.
  173. ^ “Britney Repackaged”. Manila Standard. 11 tháng 7 năm 2002. tr. 20. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2024. Album mới của Britney đã được chứng nhận Bạch kim tại Philippines
  174. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2002년 총결산 POP음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
  175. ^ “자료제공:(사)한국음반산업협회/이 자료는당협회와 상의없이 가공,편집을금합니다 - 2003년 - POP 음반 판매량” (bằng tiếng Hàn). MIAK. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2019.
  176. ^ “Chứng nhận album Hàn Quốc – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Hàn). 한국음악콘텐츠협회 (KMCA).
  177. ^ Salaverri, Fernando (2005). Sólo éxitos: año a año : 2000-2002. Iberautor Promociones Culturales. tr. 952–966. ISBN 978-84-8048-639-2. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2022.
  178. ^ “Britney Spears: "Seguiré potenciándome como actriz". ABC (bằng tiếng Tây Ban Nha). 21 tháng 3 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021. «Britney», album đã bán được 250.000 bản chỉ riêng ở Tây Ban Nha
  179. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2001” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Sweden. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  180. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Britney')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
  181. ^ “Albums turning 20 years old in 2021”. Official Charts Company. 29 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2020.
  182. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry.
  183. ^ Trust, Gary (17 tháng 7 năm 2016). “Ask Billboard: Britney Spears' Career Sales & How Big a Hit Will 'Make Me' Be?”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  184. ^ Barry David (18 tháng 2 năm 2003). “Shania, Backstreet, Britney, Eminem and Janet Top All-Time Sellers”. Music Industry News Network. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2003. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009.
  185. ^ Caulfield, Keith (25 tháng 1 năm 2008). “Ask Billboard: 'Good' Is Not So Good”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
  186. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – Britney” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  187. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2002”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế.
  188. ^ “ブリトニー・スピアーズ: Britney”. Japan: Amazon.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  189. ^ “Britney (+ 2 Bonus Tracks)”. Australia: JB Hi-Fi. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  190. ^ “Britney Spears: Britney”. Germany: Amazon.de. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  191. ^ “New Releases – For Week Starting November 5, 2001” (PDF). Music Week. 3 tháng 11 năm 2001. tr. 28. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022 – qua World Radio History.
  192. ^ “Britney Spears: Britney”. Amazon. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  193. ^ “Britney (Limited Edition) [+DVD] – Britney Spears: Amazon.de: Musik”. Amazon.de. 3 tháng 6 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  194. ^ “ブリトニー・シークレット・ダイアリー” [Britney Secret Diary] (bằng tiếng Nhật). Japan: Oricon. 5 tháng 6 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022.
  195. ^ “Britney – Britney Spears – CD album” (bằng tiếng Pháp). France: Fnac. 14 tháng 10 năm 2003. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022.
  196. ^ “Amzon.com: Britney (Digital Deluxe Version): Britney Spears”. Amazon Music. 25 tháng 12 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
  197. ^ “Britney Spears - Britney Limited LP”. Urban Outfitters. 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019.
  198. ^ “Britney Spears - Britney Limited Cassette Tape”. Urban Outfitters. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
  199. ^ “Britney (Yellow Vinyl)”. JB Hi-Fi (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  200. ^ “Britney Spears: Britney (Opaque Yellow Vinyl) (LP) – jpc”. www.jpc.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  201. ^ Mixup. “Britney (Yellow Vinyl) - (Lp) - Britney Spears - Mixup”. www.mixup.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
  202. ^ Spears, Britney (31 tháng 3 năm 2023). “Britney - Spears Britney | Muzyka Sklep EMPIK.COM”. empik.com (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2023.
  203. ^ “Britney Spears Britney Vinyl LP Yellow Colour Due Out 31/03/23”. Assai Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  204. ^ “Britney Spears - Britney [LP] | RECORD STORE DAY”. recordstoreday.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Phản ứng tăng cường Genshin Impact
Phản ứng tăng cường Genshin Impact
Trước tiên ta sẽ làm quen với phản ứng, khi ấn lôi + thảo sẽ tạo ra phản ứng và đưa quái vài trạng thái sinh trưởng
Bạn không thể mất tiền vì Trade nếu... không Trade
Bạn không thể mất tiền vì Trade nếu... không Trade
Nghe thấy rất nhiều tin tốt về một dự án tưởng như sẽ là tương lai với backers xịn, KOLs lớn tâng bốc lên mây, bạn lập tức mua vào và chờ ngày x10 x100
Giới thiệu Chloe Aubert: True Hero - Tensei Slime
Giới thiệu Chloe Aubert: True Hero - Tensei Slime
Chloe Aubert là một trong những đứa trẻ của Dị giới mà chúng ta gặp từ đầu trong anime nhưng sự thật đằng sau nhân vật của cô ấy là gì
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Những nhân vật Black Myth sẽ khai thác tiếp sau Wukong
Sau Wukong, series Black Myth sẽ khai thác tiếp Thiện Nữ U Hồn, Phong Thần Bảng, Khu Ma Đế Chân Nhân, Sơn Hải Kinh, Liêu Trai Chí Dị…